Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 415/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 415/2021/HS-PT NGÀY 18/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 611/2020/TLPT-HS ngày 26 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Mât Qui Đ cùng đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 393/2020/HS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo kháng cáo:

1. Mât Qui Đ, sinh năm 1976 tại Đồng Thap; nơi thường trú: khom T, phường M, thành phố L, tinh An Giang; chỗ ở: P, số 5X N, phường P, quân T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Lai xe; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mật Quang T và bà Ngô Thị N; có vợ Đoàn Công Diễm T và 01 con sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: không. Bi bắt tam giam ngay 17/4/2018 (co măt).

2. Vo Hoang V, tên goi khac: T, sinh năm 1992 tại Tiền Giang; nơi thường trú: 533/41 P, Phường X, Quân X, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 304 Lô D Chung cư A, Phường X, Quân 1x, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Hiếu N và bà Nguyễn Thị O có vợ Nguyễn Thị Diệu H và 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Tại Bản án số 24/2012/HSST ngày 15/3/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xử phạt 3 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt và án phí năm 2014. Bi bắt tam giam ngay 17/4/2018 (co măt).

3. Lê Thi Kiều O, sinh năm 1992 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: 628/89/39 H, Phường 1x, Quân X, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Phong số 2 Căn hô C9.1x Lô C, Chung cư P, số 5x N, phường P, quân T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Thơ lam toc; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nữ; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Quang V và bà Huỳnh Mỹ H; chưa có chồng, con; tiền án, tiền sự: không. Bi bắt tam giam ngay 17/4/2018 đến ngày 17/4/2021 thay đổi biện pháp tạm giam bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (co măt).

Ngoài ra có 02 bị cáo không kháng cáo:

1. Nguyên Ngoc Thanh H, tên goi khac: X, sinh năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: 5/49 M, Phường 1x, Quân X, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Phong số 1 Căn hô C9.1x Lô C, Chung cư P, số 5x N, phường P, quân T, Thành phố Hồ Chí Minh (co măt).

2. Dương Thanh N, tên goi khac: B, sinh năm 1988 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: 149/10/18 L, phường T, quân T, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Phong số 1 Căn hô C9.1x Lô C, Chung cư P, số 5x N, phường P, quân T, Thành phố Hồ Chí Minh (co măt).

- Người bào chữa cho bị cáo Mât Qui Đ: Luât sư Đô Hai B thuôc Đoan luât sư Thành phố Hồ Chí Minh (co măt).

- Người bào chữa cho bị cáo Vo Hoang V: Luật sư Nguyên Thanh Bao D thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (co măt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoang 08 giờ 30 phút ngày 17/4/2018, tại trước số 1142 Lạc Long Quân, Phường 8, quận Tân Bình, Công an quận Tân Bình phát hiện, bắt quả tang Mật Quí Đ đang co hành vi cất giấu trái phép chất ma túy trong người để sử dụng. Qua kiểm tra, thu giữ trong túi quần jean phía trước bên phải của Đ đang mặc có 01 gói thuốc lá 555 bên trong có 01 gói nylon chứa chất tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 19,9065g, loại Methamphetamine (MA); 01 xe gắn máy biển số 51X4-1221; 02 điện thoại di động hiệu Nokia và Samsung. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Mât Qui Đ tại Phòng số 3, Căn hộ C9.11, Lô C, chung cư P, phường P, quận T, thu giữ: 01 dụng cụ sử dụng ma túy bằng nhựa có gắn nỏ thủy tinh, ống hút bằng nhựa, 01 bình gas màu đen, 01 bật lửa, 01 kéo kim loại.

Khoang 13 giờ 00 phut cùng ngày 17/4/2018, khi Công an quận Tân Bình khám xét khẩn cấp Phòng số 3 của Mât Qui Đ thì phát hiện tại Phòng số 2, Căn hộ C9.11, Lô C, chung cư Phú Thạnh có mặt Lê Thi Kiều O. Tiếp tục khám xét nơi ở của Kiều O phát hiện thu giữ: trong giỏ xách màu đen của Kiều O đang đeo trên người co 01 gói nylon chứa chất tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,9260g, loại Methamphetamine; 01 Chứng minh nhân dân mang tên Lê Thi Kiều O; thu giữ trên giường ngủ của Kiều O 01 hộp hình chữ nhật in chữ “CC lipstick”, bên trong có 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng, qua giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,0063g, loại Ketamine; 01 dụng cụ sử dụng ma túy bằng nhựa gắn ống hút và bầu thủy tinh; 01 bình gas mini. Đến 19 giờ 00 phut ngày 18/4/2018, tại Công an phường Phú Thạnh, quận Tân Phú, Cơ quan điều tra tiến hanh thu tuc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Lê Thi Kiều O về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Vào lúc 19 giờ 15 phut ngày 18/4/2018, tại Công an phường Phú Thạnh, quận Tân Phú, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Tân Bình bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyên Ngoc Thanh H (tên khác là: X) về hành vi cất giấu trái phép chất ma túy trong người. Thu giữ trong ba lô bằng vải màu đen sọc đỏ H đang đeo trên vai bên trong có 03 gói nylon chứa chất tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 192,9026g, loại Methamphetamne; 01 gói nylon chứa 50 viên nén màu xanh có in hình cái khiêng, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 19,7441g, loại MDMA; số tiền 4.700.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Mobistar. Tiến hành khám xét khẩn cấp tại nơi thường trú của H tại số 5/49 M, Phường 1x, Quận X không thu giữ gì.

Vào lúc 19 giờ 30 phut ngày 18/4/2018, tại Công an phường Phú Thạnh, quận Tân Phú, Cơ quan điều tra bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Dương Thanh N (tên khác là: B) về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”, thu giữ của N 01 điện thoại hiệu Samsung màu đen; 01 xe gắn máy biển số 59D2- 32.961. Khám xét khẩn cấp nơi ở của N tai: Phòng số 1, Căn hộ C9.1X1, lô C, Chung cư P, phường P, quận T, đã thu giữ: trên bàn gỗ 01 gói nylon chứa chất tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 3,8296g, loại Methamphetamine; 01 bình hút thủy tinh để sử dụng ma túy; 01 bình gas màu đen và số tiền 120.000.000 đồng. Thu trong ngăn bàn gỗ thứ 1: có 01 túi nylon màu đen, bên trong có 01 hộp nhựa màu xanh, qua giám định có chứa nhiều loại ma túy gồm tinh thể (ma túy đá) và viên nén (thuốc lắc), tổng cộng khối lượng 70,4451g, loại Methamphetamine, MDMA, Ketamine; 01 gói nylon chứa 01 viên nén hình trái dâu màu xanh và 7 mảnh vụn viên nén, qua giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,789g, loại MDMA và 01 viên nén hình chữ nhật, qua giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,3714g, loại Heroin; 10 bịch nylon không đựng gì; 02 nỏ thủy tinh, 01 ống xúc bằng nhựa và 01 cân điện tử màu bạc. Thu trong ngăn bàn gỗ thứ 2: 01 điện thoại di động Samsung màu vàng.

Đến 19 giờ 50 phut ngày 18/4/2018, tại Công an Phường 5, Quận 11, Cơ quan điều tra bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Vo Hoang V (tên khác là: T) về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tiến hành khám xét chỗ ở của V tại Phòng 304 Lô D, chung cư Âu Cơ, Phường 5, Quận 11 thu giư: trong tủ nhựa kích thước 9x13x18cm để trên két sắt tại phòng ngủ gồm: 01 khay nhựa màu xanh lá cây, kích thước 3x9x13cm đựng nhiều viên nén (thuốc lắc), qua giám định là ma túy ở thể rắn, tổng cộng khối lượng 42,9335g, loại Methamphetamine và Ketamine; 01 Khay nhựa màu hồng, kích thước 3x9x13cm đựng nhiều viên nén (thuốc lắc) và tinh thể, qua giám định là ma túy ở thể rắn, tổng khối lượng 21,4899g, loại Methamphetamine; 01 Khay nhựa màu vàng, kích thước 3x9x13cm đựng 02 gói nylon chứa chất tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 59,7805g, loại Methamphetamine; 01 Khay nhựa màu tím, kích thước 3x9x13cm đựng nhiều viên nén (thuốc lắc), qua giám định là ma túy ở thể rắn, tổng khối lượng 24,4826g, loại MDMA và Methamphetamine. Thu trong két sắt gồm có: 01 gói nylon chứa chất tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 298,16g, loại Methamphetamine; 02 gói nylon chứa chất tinh thể không màu, qua giám định là ma túy thể rắn, khối lượng 95,3438g, loại Ketamine. Thu trong hộp đen bằng giấy đặt trên sàn nhà kế bên két sắt gồm có: 01 gói nylon chứa chất tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 7,5707g, loại MA; 01 gói nylon chứa 02 viên nén tròn màu cam, qua giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,3611g, loại Nimetazepam; 02 ống xúc bằng nhựa, 01 kéo kim loại, 01 cân điện tử. Thu trong bịch nylon màu vàng để trên sàn nhà kế bên két sắt có 10 bịch nylon không chứa gì. Thu trên bàn gỗ kế bên két sắt gồm có: 01 bình nhựa gắn ống hút để sử dụng ma túy; 01 bình gas mini; 10 gói nylon; 01 điện thoại di động; 01 hộ chiếu mang tên Vo Hoang V.

Tất cả số ma túy thu giữ trong vụ án đã được giám định, kết quả thể hiện tại bản kết luận giám định số 760/KLGĐ-H ngày 26/4/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thanh phố Hồ Chí Minh.

Qua trinh điều tra, Mât Qui Đ, Vo Hoang V, Nguyên Ngoc Thanh H, Dương Thanh N và Lê Thi Kiều O đã khai nhận như sau:

- Vo Hoang V khai nhận: do nghiện ma túy nên Vu thường liên hệ các đối tượng mua ma túy trong đó có Mât Qui Đ. Do không có tiền để mua ma túy sử dụng và bán lại kiếm lời, nên V đến gặp Đ để thỏa thuận V sẽ sang Campuchia gặp người tên Chey (không rõ lai lịch, là bạn của Đ) liên hệ mua ma túy từ Chey mang về Việt Nam giao lại cho Đ, với phường thức V sẽ thỏa thuận giá cả mua ma túy với Chey xong va điện thoại về Việt Nam cho Đ chuyển tiền qua thanh toán cho Chey, V có trách nhiệm nhận ma túy về giao cho Đ. Khoảng 08 giờ 00 phut ngày 16/4/2018, sau khi thống nhất cách thức với Đ sang Campuchia mua ma túy của Chey. V rủ Nguyên Ngoc Thanh H cùng đi với V, khi đến Campuchia Vgặp Chey nói chuyện để mua ma túy, lúc này H ngồi ở quán nước ở phía bên ngoài chờ V. Do Dương Thanh N (là chồng của H) biết việc H đi cùng V sang Campuchia, nên đã gọi điện thoại cho V nói đón xe cho H quay về. Sau đó, V đón xe ôm cho H đi từ Campuchia về Việt Nam còn V ở lại, đồng thời xe ôm đưa H về đến chung cư Phú Thạnh, quận Tân Phú (nơi ở của N và H, chung nhà với Đ). Khi V ở lại thỏa thuận việc mua bán ma túy với Chey xong, V yêu cầu Chey cho người mang ma túy qua cửa khẩu Mộc Bài, phía Việt Nam giao cho V, Chey đồng ý. V điện thoại về cho Đ chuyển tiền cho Chey, đồng thời Đ và Chey nói chuyện với nhau, nhưng V không biết vì sao mà Đ không chuyển tiền qua Campuchia để V nhận ma túy. Sau đó, V tự thỏa thuận với Chey để được nhận ma túy và được Chey đồng ý cho thiếu nợ khoảng 2 đến 3 ngày sẽ chuyển tiền trả cho Chey. Sau khi qua cửa khẩu Mộc Bài và nhận ma túy, V đón taxi về đến nhà của V tại chung cư Âu Cơ, Phường 5, Quận 11, về đến nơi luc 02 giờ 00 phut ngày 17/4/2018. Đến khoảng 07 giờ 30 phut cùng ngày, V điện thoại cho H nói mang chiếc balô của V nhờ H cầm giúp V về Việt Nam trước đó, đồng thời lúc này Đ chở H cùng đi sang nhà của V tại chung cư Âu Cơ. Khi Đ đến nhà của V thì V và Đ vào phòng của V, V giao lại số ma túy mà V mang từ Campuchia cho Đ, tại đây Đ kiểm tra số lượng ma túy và phân chia số ma túy thuốc lắc ra các khay nhựa để khi nào có người mua ma túy thì Đ điện thoại cho V mang đi giao giúp Đ, còn số ma túy đá Đ nhờ V cất giữ vào két sắt của V để chiều Đ đi làm về sẽ lấy sau. Sau khi phân chia ma túy xong, Đ đưa cho V 03 gói ma túy đá và 01 gói thuốc lắc để V đưa cho H mang về nhà cho Đ. Con từ nhà của V đi đến trước số 1142 Lạc Long Quân, quận Tân Bình thì bị Công an quận Tân Bình bắt quả tang như nêu trên.

- Nguyên Ngoc Thanh H khai nhận: Bản thân nghiện ma túy từ năm 2016 va sống chung với Dương Thanh N tại Phòng số 1, Căn hộ C9.11, lô C, chung cư Phú Thạnh, quận Tân Phú (chung căn hộ với Mât Qui Đ). Vào ngày 16/4/2018, khi V rủ H cùng đi Campuchia thì Đ cũng nói H đi cùng V sang Campuchia chơi cho biết, nhưng mục đích của Đ là cho H đi theo để giám sát V trong việc thỏa thuận mua ma túy với Chey. Khi sang đến Campuchia thì V tiếp xúc với những người Campuchia, H sợ bị bắt cóc đem bán nên đã nói V tìm xe cho H về Việt Nam, cùng lúc này N điện thoại cho V nói cho H quay về nên V đã đón xe ôm cho H về Việt Nam, chở H về chỗ ở tại chung cư Phú Thạnh, quận Tân Phú. Khi H về V nhờ H mang giúp V đem 01 ba lô về nhà cho V. Đến sáng ngày 17/4/2018, V điện thoại cho H mang chiếc ba lô sang nhà của V, Đ chở H đi, khi sang đến nhà V thì H đưa ba lô cho V và ngồi phía bên ngoài chơi với vợ của V là Nguyễn Thị Diệu H. Trong lúc đang ngồi phía bên ngoài thì H nghe V và Đ nói chuyện lớn tiếng, đồng thời V trách Đ là “tại sao không chuyển tiền qua cho V”, sau đó thì Đ bỏ đi và nói “Đang bận đi làm có gì gửi H đem về cho Đ”. Đ bỏ đi, H đi vào trong phòng của V thì nhìn thấy V mở két sắt lấy ra 03 gói ma túy đá và 01 gói thuốc lắc bỏ vào ba lô rồi đưa cho H nói mang về cho Đ, đồng thời V đưa H số tiền 4.700.000 đồng nhờ mang về trả cho N, H nhận tiền V đưa bỏ vào ba lô chung với các gói ma túy và đi ra phía bên ngoài, cùng lúc này N đến nhà V đón H để chở H về. Khi N chở H về đến chung cư Phú Thạnh, quận Tân Phú thì bị Cơ quan Công an kiểm tra, phát hiện thu giữ số ma túy trong ba lô của H đang đeo trên người. Đây là lần đầu tiên H nhận ma túy mang về nhà giúp Đ, Đ hứa sẽ trả công cho H nhưng không nói là bao nhiêu tiền.

Dương Thanh N khai nhận: Sau khi chấp hành hình phạt tù về địa phường sinh sống vào năm 2015, N bắt đầu sử dụng va ban ma túy. Nguồn ma túy, N mua của một đối tượng tên Tí (không rõ lai lịch) ở khu vực Kênh Tân Hóa, quận Tân Phú mang về phân chia thành từng gói nhỏ để bán lại kiếm lời và sử dụng. Trong đó, N đã mua ma túy của Tí được 2 lần, cụ thể: Lần 1: vào sáng ngày 10/4/2018, N mua của Tí 25 viên thuốc lắc với giá 180.000 đồng/1 viên, mang về nhà cất giữ và sử dụng hết 2 đến 3 viên, số còn lại chưa kịp bán thì bị thu giữ khi khám xét. Lần thứ 2: Vào ngày 15/4/2018, N mua của Tí 5g ma túy đá với giá 1.200.000 đồng mang về nhà sử dụng, đồng thời bán lại cho Lê Thi Kiều O 01 gói với giá 500.000 đồng vào buổi tối cùng ngày, số còn lại N cất giữ thì bị thu giữ.

Đối với số ma túy đựng trong chiếc hộp nhựa màu xanh bị thu giữ khi khám xét vào ngày 17/4/2018, N khai là của Mât Qui Đ đưa cho N cất giữ để khi có khách thì đem bán giúp Đ, cụ thể: Sáng ngày 17/4/2018, Đ qua phòng của N mượn cân điện tử, N đưa cho Đ một túi nhựa màu đen, bên trong có 01 hộp nhựa đựng ma túy của N và 01 cân điện tử, đồng thời Đ nói cho N biết Đ cân ma túy xong sẽ gửi ma túy cho N cất giữ để khi có người mua thì N bán giúp cho Đ, N đồng ý và nhân hộp nhựa màu xanh cất vào ngăn bàn gỗ cùng với ma túy của N. Đến khoảng 09 giờ 00 phut cùng ngày 17/4/2018, khi N đang ở Phòng số 1, chung cư Phú Thạnh thì H điện thoại cho N sang nhà V đón H về. Khoảng 09 giờ 30 phut khi N chở H về đến chung cư Phú Thạnh thì bị Công an phát hiện thu giữ số ma túy trong ba lô của H đang đeo trên người. Đồng thời, tiến hành khám xét nơi ở của N tại Phòng số 1, căn hộ C9.1x lô C, chung cư P phát hiện thu giữ số ma túy như nêu trên.

Quá trình điều tra, N chỉ thừa nhận số ma túy gồm 03 gói ma túy đá, 01 gói nylon chứa 7 mảnh vụn thuốc lắc và 01 gói chứa 03 viên thuốc lắc (02 viên màu xanh và 01 viên màu hồng), đây là số ma túy mà N đã mua của Tí trước đó còn lại để bán. Đối với số viên nén có chứa Heroin và Ketamine thi N không biết ở đâu mà có, số ma túy còn lại là do Đ đưa cho N cất giữ để bán vào sáng ngày 17/4/2018, nguồn gốc ma túy của Đ ở đâu thì N không biết. Mặc dù, N chỉ thừa nhận số ma túy mà N đã mua của Tí còn lại để bán, còn các số ma túy khác do Đ gửi N cất giữ, nhưng căn cứ vào kết quả khám xét thu giữ và lời khai của N xác định số ma túy N cất giữ trong nhà đều nhằm mục đích để bán lại kiếm lời. Do đó, đủ cơ sở buộc Dương Thanh N phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đối với toàn bộ số ma túy đã thu giữ khi khám xét tổng cộng là 65,5687g, loại Methamphetamine; 5,8879g, loại MDMA và 3,6035g, loại Ketamine. Riêng đối với số ma túy thu giữ trong ba lô của Nguyên Ngoc Thanh H gồm 192,9026g, loại Methamphetamine và 19,7441g, loại MDMA, khi N chở H từ nhà của V về nhà thì bị kiểm tra phát hiện thu giữ, do N không biết H nhận lời mang ma túy từ nha V về nhà cho Đ, nên không có cơ sở để buộc N phải chịu trách nhiệm hình sự về khối lượng ma túy đã thu giữ của Nguyên Ngoc Thanh H.

Lê Thi Kiều O khai nhận: Bản thân sử dụng ma túy từ năm 2017, đến khoảng đầu năm 2018 thông qua bạn bè thì quen biết với Mât Qui Đ. Đến ngày 15/4/2018, Kiều O nhờ Đ mua giúp ma túy để sử dụng và Đ đưa số điện thoại của N để Kiều O liên hệ mua ma túy. Khoảng 23 giờ 00 phut cùng ngày, Kiều O điện thoại cho N mua 01 gói ma túy đá với giá 500.000 đồng, N giao ma túy cho Kiều O tại khu vực chân cầu Hậu Giang, Phường 12, Quận 6, Kiều O sử dụng hết một ít, còn lại thi cất giữ trong túi xách để sử dụng dần. Ngày 16/4/2018, Đ cho Kiều O thuê lại Phòng số 2, cùng căn hộ C9.1x lô C, chung cư P, quận T để ở cùng với Đ và N. Đến ngày 17/4/2018, Công an tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Đ và N, đồng thời khám xét phòng của Kiều O đã phát hiện thu giữ được số ma túy còn lai ma Kiều O cất giữ như đã nêu trên.

Mât Qui Đ ban đầu khai nhận: Bản thân sử dụng ma túy từ năm 2017 và nhiều lần mua ma túy của N và V để sử dụng, ngày 17/4/2018 Đ mua ma túy đá của N với khối lượng 19,9065g MA, với giá 8.200.000 đồng, cất giữ trong người để sử dụng cho bản thân. Khi Đ đang trên đương đi làm đến trước số 1142 Lạc Long Quân, quận Tân Bình thì bị Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang thu giữ số ma túy trên. Đ còn biết nhiều người ở ngoài tỉnh (không rõ lai lịch) đến chỗ của N để mua ma túy. Sau đó, Đ thay đổi lời khai không thừa nhận số ma túy bị thu giữ đã mua của N như lời khai ban đầu mà khai đã mua của một người tên Hùng (không rõ lai lịch) với giá 8.000.000 đồng để sử dụng và không thừa nhận thực hiện hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Quá trình điều tra, căn cứ lời khai của các bị can Vo Hoang V, Nguyên Ngoc Thanh H, Dương Thanh N và các chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập được, đã đủ căn cứ buộc Mât Qui Đ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”, cụ thể như sau:

Mật Qui Đ là người nghiện từ năm 2017 và quen biết với Vo Hoang V, Dương Thanh N, Nguyên Ngoc Thanh H và Lê Thi Kiều O. Đ la người đa thuê căn hộ C9.11, Lô C, chung cư Phú Thạnh, phường Phú Thạnh, quân Tân Phú; căn hộ có 3 phòng ngủ, Đ sử dụng phòng số 3; cho Dương Thanh N thuê lại phòng số 1 và Lê Thi Kiều O thuê phòng số 2 để thuận tiện cho việc mua bán và sử dụng ma túy. Ngoài ra, Đ còn vận chuyển ma túy từ Thanh phố Hồ Chí Minh về thanh phố Long Xuyên, tỉnh An Giang bán cho các người nghiện, cu thê như sau:

- Ngày 16/4/2018, sau khi Đ thỏa thuận với V về cách thức qua Campuchia mua ma túy của Chey (người Campuchia và là bạn của Đ), Đ nói Nguyên Ngoc Thanh H đi cùng với V qua Campuchia chơi. Khi đến Campuchia, V điện thoại gặp Chey tại một nhà nghỉ, còn H ngồi bên ngoài chờ V, khi V trao đổi với Chey và có những lời nói lớn tiếng mà H nghe được và sợ bị V lừa bán qua Campuchia nên H đã gọi điện thoại cho Đ nhờ Đ nói với V đón xe cho H về Việt Nam trước nhưng Đ không nói gì. Luc đo, Dương Thanh N biết H đi Campuchia cùng với V nên đã gọi điện thoại nói với V đón xe cho H quay lại về Việt Nam. V đón xe ôm từ Campuchia cho H về nơi ở của H tại chung cư Phú Thạnh, quận Tân Phú (nơi N đang thuê ở), còn V ở lại thỏa thuận mua bán ma túy của Chey và điện thoại yêu cầu Đ chuyển tiền cho Chey để V đem ma túy về. Do biết H đón xe về trước không còn ở Campuchia cùng V nên Đ không tin V mua được ma túy và không chuyển tiền cho Chey. Sau đó, V tự thỏa thuận với Chey để lấy ma túy nhưng thiếu nợ đem về cho Đ và hứa với Chey sau khi về đến Việt Nam khoảng 2 đến 3 ngày thì sẽ nói Đ chuyển tiền trả cho Chey. Sau khi mua được ma túy, V đón xe taxi trở về Việt Nam, về đến nhà lúc 2 giờ sáng ngày 17/4/2018. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 17/4/2018, V gọi điện thoại thông báo cho Đ biết là V đã đem ma túy về chỗ ở của V và nói H đem ba lô qua trả cho V. Sau đó, Đ chở H đi qua chỗ ở của V tại phòng 304 lô D chung cư Âu Cơ, Phường 5, Quận 11. Khi đến nơi, H đem ba lô đưa cho V rồi ra ngồi bên ngoài chơi với Nguyễn Thị Diệu H là vợ của V. Tại đây, V đưa hết số ma túy vừa mua được từ Campuchia về cho Đ, Đ phân nhỏ từng phần ma túy rồi bỏ ra các khay nhựa để bên ngoài khi nào có người mua thì Đ điện thoại cho V đem đi bán giúp Đ; số ma túy còn lại Đ mượn két sắt của V cất giấu.

Trong lúc V và Đ đang ở trong phòng và Nguyên Ngoc Thanh H đang ngồi chơi ở bên phía ngoài thì có nghe V trách Đ là “Tại sao Đ không gửi tiền qua cho V”. Sau một lúc thì thấy Đ quay ra bỏ về và nói “Đang bận đi làm có gì gửi đồ cho H đem về giúp Đ”. Sau khi Đ đi về, H đi vào bên trong phòng của V thì thấy V để ma túy ở dưới sàn nhà trong phòng ngủ, gần két sắt nên V lấy 3 gói ma túy đá (192,9026g, loại MA) và 1 gói thuốc lắc (19,7441g, loại MDMA) bỏ vào trong ba lô rồi đưa ba lô cho H nhờ H đem về cho Đ . Ngoài ra, V còn đưa cho H số tiền 4.700.000 đồng nhờ H đem về trả cho N giúp V. H cầm tiền bỏ chung vào bịch nylon đựng ma túy để trong ba lô, sau đó đi ra ngoài để N chở H về chung cư Phú Thạnh, khi về đến trước chung cư thì bị công an kiểm tra phát hiện thu giữ số ma túy trong ba lô của H đang đeo trên người.

Đối với số ma túy đá bị thu giữ trong hộp nhựa thu giữ tại chỗ ở của Dương Thanh N vào ngày 17/4/2018, N khai là của Mât Qui Đ đưa cho N vào khoảng 07 giờ ngày 17/4/2018, nhằm mục đích để bán cho người nghiện. Cụ thể: sáng ngày 17/4/2018, Đ qua phòng của N mượn cân điện tử, N đưa cho Đ một túi nhựa màu đen bên trong có hộp nhựa chứa ma túy của N và 01 cân điện tử; Đ nói với N là sau khi cân ma túy xong, Đ sẽ gửi ma túy cho N cất giữ giúp để khi nào có người mua thì N bán giúp cho Đ, N đồng ý.

Qua trình điều tra, Cơ quan điều tra xác định ngoài hành vi bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thanh phố Hồ Chí Minh khởi tố, điều tra xử lý trong vụ án này, thì Mât Qui Đ còn có hành vi mang ma túy từ Thanh phố Hồ Chí Minh xuống thanh phố Long Xuyên, tỉnh An Giang và giao ma túy cho Diệp Thanh B (ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang) nhờ Diệp Thanh B đem ma túy đi giao cho khách của Đ và nhận 1.800.000 đồng tiền bán ma túy cất giữ cho Đ. Cụ thể: ngày 29/10/2017, Diệp Thanh B đi nhờ xe tải của Đ về thanh phố Long Xuyên, tỉnh An Giang; trong lúc ngồi trên xe B thấy Đ lấy bao thuốc lá 555 mở ra cho B xem có cất giấu ma túy đá. Khi Đ chở B về đến nhà của B tại 297/4 đường C, phường M, thanh phố L, tỉnh An Giang thì Đlấy gói thuốc lá trên đưa cho B và nói đem về cất giữ giúp cho Đ. Đến tối khoảng 20 giờ cùng ngày, Đ điện thoại cho B nói lấy 01 gói ma túy nhỏ chia làm 2 phần bằng nhau, khi nào có người gọi cho B thì đem ra giao giúp Đ và B đã làm theo hướng dẫn của Đ. Sau khi giao ma túy cho khách của Đ xong thì người khách nhận ma túy đưa 1.800.000 đồng cho B để đưa lại cho Đ. Sau đó Đ lại tiếp tục điện thoại cho B cầm ma túy đi giao cho khách của Đ, do thấy Đ đang hoạt động mua bán ma túy nên B không giúp sức cho Đ nữa và nói Đ đến lấy số ma túy còn lại (có khối lượng 5,5321g MA) đang để ở chỗ của B mang về nhưng Đ không đến lấy và cũng không nghe điện thoại của B gọi. B sợ Đ bị Công an bắt giữ sẽ khai ra B nên B đã đem số ma túy còn lại đến giao nộp cho Cơ quan Công an Thanh phố Long Xuyên và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thanh phố Long Xuyên, tỉnh An Giang đã khởi tố vụ án, khơi tố bị can đối với Diệp Thanh B về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, Tòa án nhân dân thanh phố Long Xuyên đã xử phạt B 02 năm tù giam, hiện B đang chấp hành án tại trại giam Thạnh Hoa, Bô công an.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Tp. Hồ Chí Minh đã tiến hành ghi lời khai, hỏi cung và đối chất giữa các bị can có lời khai mâu thuẫn với Mât Qui Đ, nhưng Đ vẫn quanh co chối tội, không thừa nhận những hành vi như các bị can đã khai nhận. Tuy nhiên, với những căn cứ như đã nêu trên, có đủ cơ sở xác định Mât Qui Đ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đối với tổng khối lượng ma túy thu giữ của Vo Hoang V, Nguyên Ngoc Thanh H, Dương Thanh N và Diệp Thanh B là 829,6489g, loại Methamphetamine, MDMA và Ketamine, cùng hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” bị bắt quả tang vào ngày 17/4/2018 với khối lượng 19,9065g, loại Methamphetamine.

Đối với các đối tượng tên Chey, Tí và Hùng là người bán, ngươi mua ma túy; do Vo Hoang V, Dương Thanh N, Mât Qui Đ khai không rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở truy xét làm rõ để xử lý.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 393/2020/HS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

1. Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; khoản 2 Điều 51; Điều 40; Điều 55; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Mât Qui Đ 08 (tám) năm tu về tôi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tư hinh về tôi “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Tổng hợp hình phat, buộc bi cao phải chấp hành hinh phat chung cua ca hai tôi la tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

Buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng để sung vào Ngân sách nhà nước.

2. Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 39; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Vo Hoang V tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 17/4/2018.

Buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung vào Ngân sách nhà nước.

3. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Lê Thi Kiều O 03 (ba) năm tu về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 17/4/2018.

Bản án sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Nguyên Ngoc Thanh H 20 (hai mươi) năm tu về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Dương Thanh N 16 (mười sáu) năm tu về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3, khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt . Buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung vào Ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 21/9/2020 bị cáo Lê Thi Kiều O kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 28/9/2020 bị cáo Mât Qui Đ kháng cáo đề nghị xem xét lại toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo.

Ngày 30/9/2020 bị cáo Vo Hoang V kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 14/04/2021, Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành quyết định thay đổi biện pháp tạm giam số 08/2021/HSPT-QĐTĐBPNC về việc thay đổi biện pháp tạm giam bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, đối với bị cáo Lê Thi Kiều O, sinh năm 1992 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: 628/89/39 H, Phường 1x, Quân x, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Phong số 2 Căn hô C9.1x Lô C, Chung cư P, số 5x N, phường P, quân Tân Phu, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Thơ lam toc. Việc thay đổi biện pháp tạm giam được tính kể từ ngày 17/4/2021.

Tại đơn kháng cáo và trước phiên tòa phúc thẩm bị cáo Mât Qui Đ kháng cáo cho rằng lời khai của các bị cáo V, H về việc mua bán ma túy của bị cáo là không đúng.

Bị cáo Vo Hoang V và Lê Thi Kiều O xin giảm nhẹ hình phạt vì cho rằng mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử đối với các bị cáo là quá nặng.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Kiều O tự nguyên rút kháng cáo, nên đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Kiều O.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Lê Thi Kiều O; Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Mât Qui Đ, Vo Hoang V, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Mât Qui Đ có ý kiến:

Từ giai đoạn xét xử sơ thẩm đến nay bị cáo Đ đa không thừa nhận mua bán ma túy, cac cơ quan tiến hành tố tung chỉ dựa trên lời khai của các bị cáo khác va tính tổng khối lượng ma túy thu giữ của các bị cáo V, N và H để quy kết bị cáo Đ pham tội mua bán trái phép chất ma túy vơi vai trò chủ mưu là không có căn cứ. Về lượng ma túy: Nếu quy đổi theo tinh thần Nghị quyết 01 thì bị cáo chưa đến mức tử hình. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại tội danh mua bán trái phép chất ma túy cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Vo Hoang V trình bày: Mức án chung thân cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo là quá nặng. Bị cáo tham gia mua bán ma túy với mức độ hạn chế, với vai trò là người giúp sức. Hành vi phạm tội của bị cáo V đã được phát hiện kịp thời, nên hạn chế phát tán ra số lượng ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo xuống 20 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và kết quả thẩm vấn tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của Kiểm sát viên, các luật sư bào chữa cho các bị cáo và xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]. Bị cáo Mât Qui Đ chỉ thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo không thừa nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy cũng như nhờ các bị cáo khác đi mua ma túy, vận chuyển ma túy về nơi ở cất giấu nhằm bán lại như các bị cáo khác khai nhận. Song căn cứ vào biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét nơi ở của bị cáo, căn cứ vào lời khai ban đầu của bị cáo cũng như lời khai của các bị cáo Vo Hoang V, Nguyên Ngoc Thanh H, Dương Thanh N, Lê Thi Kiều O đều phù hợp thống nhất với nhau, lời khai của Diệp Thanh B, cùng các tài liệu chứng cứ khác như biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định... Hội đồng xét xử xét thấy có đầy đủ cơ sở xác định Mât Qui Đ đã phạm các tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo Vo Hoang V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và bị cáo Lê Thi Kiều O phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như Tòa án cấp sơ thẩm đã xử là có căn cứ, đúng pháp luật, đối với bị cáo Đ là không oan.

[2]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến chế độ quản lý biệt dược của nhà nước, mà còn gây mất trật tự an ninh và an toàn xã hội. Các bị cáo đều biết rõ tác hại nghiêm trọng của ma túy đối với sức khỏe con người, là nguồn gốc phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm nguy hiểm khác nhưng vì động cơ cá nhân đã cố tình phạm tội. Do đó việc xử phạt nghiêm đối với các bị cáo là cần thiết nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[3]. Trong vụ án này Mât Qui Đ là người chủ mưu, cầm đầu trực tiếp thuê địa điểm, lôi kéo, phân công nhiều bị cáo khác thực hiện việc mua bán vận chuyển ma túy từ Campuchia về Việt Nam cất giấu để bán lại cho người khác. Bị cáo Mât Qui Đ đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy với tổng khối lượng là 829,6489 gam loại Methamphetamine, MDMA và Ketamine; bị cáo Đ tàng trữ trái phép khối lượng ma túy là 19,9065g loại Methamphetamine. Hành vi phạm tội của bị cáo Đ là đặc biệt nghiêm trọng. Cùng một lúc bị cáo phạm hai tội mua bán, tàng trữ số lượng ma túy rất lớn. Tuy nhiên, quá trình điều tra, tại các phiên tòa bị cáo khai báo không thành khẩn, quanh co chối tội điều đó chứng tỏ bị cáo không ăn năn, hối hận coi thường pháp luật; với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, xét việc Tòa án cấp sơ thẩm khi xét xử và lượng hình đã có xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo để xử phạt bị cáo là đúng quy định của pháp luật. Tại đơn kháng cáo và trước phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo Đ không có lý do, chứng cứ mới, tình tiết giảm nhẹ đáng kể nào để xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo nên giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4]. Bị cáo Vo Hoang V là người trực tiếp đi mua ma túy theo sự chỉ đạo sắp xếp của Mât Qui Đ. Bị cáo đã mua về để giao và cất giữ cho Đ nhằm bán lại với số lượng ma túy rất lớn là 762,4087g loại Methamphetamine, MDMA, Ketamine. Với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo theo quy định của pháp luật là phải xử phạt mức án cao nhất trong khung hình phạt. Tuy nhiên, khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã có xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức theo sự chỉ đạo của bị cáo Đ, quá trình điều tra và trước phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên chỉ phạt bị cáo mức án tù chung thân là phù hợp với quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nào mới để xin giảm nhẹ hình phạt do đó không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Với nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng không có chứng cứ để chấp nhận các ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo Mât Qui Đ và bị cáo Vo Hoang V, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5]. Đối với Lê Thi Kiều O đã có hành vi cất giữ ma túy với số lượng 0,9323g loại Methamphetamine và Ketamine nhằm mục đích sử dụng. Khi lượng hình Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã có xem xét các tình tiết giảm nhẹ như bị cáo chưa có tiền án tiền sự, thành khẩn khai báo ăn năn hối cải để xử phạt bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Kiều O rút yêu cầu kháng cáo. Xét việc rút kháng cáo của bị cáo hoàn toàn tự nguyện, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Kiều O.

[6]. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ vào Điều 248; điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Lê Thi Kiều O, bản án sơ thẩm số 393/2020/HS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Kiều O.

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Mât Qui Đ, Vo Hoang V và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

1. Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251, khoản 2 Điều 51; Điều 40; Điều 55; Điều 58 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Mât Qui Đ 08 (tám) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

Buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

2. Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 39, Điều 58 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Vo Hoang V tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 17/4/2018.

Buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật.

4. Án phí hình sự phúc thẩm các bị cáo Mât Qui Đ, Vo Hoang V mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

5. Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

6. Đối với bị cáo Mât Qui Đ trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án phúc thẩm được quyền làm đơn gửi đến Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xin ân giảm án tử hình.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 415/2021/HS-PT

Số hiệu:415/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;