TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 41/2022/HS-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41 /2022/TLST- HS ngày 30 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40 /QĐXXST- HS ngày 15/7/2022 đối với bị cáo:
Lò Văn T , tên gọi khác: Lò Văn T , sinh năm 1978, huyện S tỉnh Sơn La.
Nơi cư trú: Bản M xã M , huyện S , tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: Lớp 3/12; dân tộc: Lào; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn L con bà Lò Thị S ; có vợ là Quàng Thị P (đã ly hôn) vợ hiện tại Quàng Thị L ; con: có 03 con, lớn sinh năm 1982, con nhỏ nhất sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Năm 2003 bị Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La ra Quyết định số 24521 ngày 04/8/2003 đưa vào trường giáo dưỡng thời hạn 24 tháng; năm 1998 bị Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xử phạt 03 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; năm 2018 bị Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La xử phạt 20 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Bị bắt tạm giữ ngày 21 tháng 3 năm 2022, chuyển tạm giam ngày 29 tháng 3 năm 2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ ngày 21/3/2022, Lò Văn T đi bộ một mình từ nhà ở bản M đến bản Huổi Pá, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp gặp và mua được 01 gói thuốc phiện của một người không quen biết với số tiền 100.000 đồng, T cất giấu vào trong túi áo ngực đang mặc, mục đích để sử dụng cho bản thân, khi quay về thì bị tổ công tác của Công an huyện Sốp Cộp kiểm tra phát hiện lập biên bản quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa 2,30 gam thuốc phiện.
Ngày 22/3/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sốp Cộp đã thành Hội đồng mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định, gói vật chứng của T có khối lượng 2,30 gam, đã sử dụng hết làm mẫu gửi giám định, ký hiệu T.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sốp Cộp đã ra Quyết định số 22/QĐ-HSKTM Ngày 22/3/2022, trưng cầu phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh sơn La giám định chất ma túy.
Bản kết luận số 526/KL-KTHS ngày 24/3/2022 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy, loại thuốc phiện; khối lượng của mẫu giám định 2,30 gam.
Bản Cáo trạng số 30/CT-VKSSC ngày 29 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, truy tố bị cáo Lò Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa, sau khi trình bày luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự; Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 18 đến 24 tháng tù; miễn phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về xử lý vật chứng: Tịch thu để tiêu hủy các vỏ phong bì niêm phong ban đầu và 01 mảnh ni lon màu trắng ban đầu; Về án phí: Miễn khoản án phí cho bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/2016 UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Về nguồn gốc 2,30 gam thuốc phiện bị cáo khai do mua được của một người không quen biết, không rõ địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.
Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn T khai nhận ngày 21 tháng 3 năm 2022 bị cáo đã mua và tàng trữ 01 gói thuốc phiện có khối lượng 2,30 gam thì bị Công an huyện Sốp Cộp, phát hiện lập biên bản quả tang; Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 13 giờ 30 ngày 21 tháng 3 năm 2022; Biên bản cân tịnh vật chứng, kết luận giám định số 526, ngày 24/3/2022, lời khai người chứng kiến, vật chứng của vụ án là 2,30 gam ma túy, loại thuốc phiện. Từ những căn cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lò Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
[3] Xét về tính chất mức độ hành vi phạm tội:
Trước khi phạm tội bị cáo Lò Văn T chưa có tiền án, tiền sự, là người đã trên 18 tuổi có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện, hành vi đó đã gây nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác; Vì vậy, phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật, cần tuyên phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi bị cáo đã gây ra, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, nhằm răn đe giáo dục bị cáo và để phòng ngừa chung.
[4] Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Nhân thân: Bị cáo có nhân thân sấu, trước khi phạm tội lần này bị cáo đã có 01 tiền sự về cải tạo giáo dục bắt buộc trong trường giáo dưỡng 24 tháng đã được xóa tiền sự và có 02 tiền án năm 1998 và 2018 nhưng đã được xóa án tích.
Tình tiết tăng nặng: không có Tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; bố đẻ của bị cáo là ông Lò Văn L được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì, nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của bộ luật hình sự.
[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính lẽ ra bị cáo phải bị áp dụng hình phạt bổ sung theo qui định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự; xét thấy bị cáo không có tài sản, nên không áp dụng.
[6] Về xử lý vật chứng: 01 phong bì thư của Công an huyện Sốp Cộp đã được niêm phong kín, 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở và 01 mảnh ni lon màu trắng ban đầu là vật cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
[7] Về án phí: Bị cáo là dân tộc thiểu số, nơi cư trú ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn; Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; cần miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Về tội danh: Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự: Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn T 18 (Mười tám) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 21 tháng 3 năm 2022; Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng phạt bổ sung là tiền đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì thư của Công an huyện Sốp Cộp đã được niêm phong kín, 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở và 01 mảnh ni lon màu trắng ban đầu; Toàn bộ vật chứng của vụ án theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01 tháng 7 năm 2022.
4. Về án phí: Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn Tâm.
5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 29/7/2022.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 41/2022/HS-ST
Số hiệu: | 41/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/07/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về