Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 35/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 35/2022/HS-ST NGÀY 16/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Đống Đa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 01/2022/HSST ngày 05 tháng 01 năm 2022; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2022/QĐXX- HS ngày 11 tháng 01 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 03 ngày 24 tháng 01 năm 2022, đối với các bị cáo:

1/ Lê Gia B, sinh năm 2000; Hộ khẩu Thường trú: Số 7A đường T, phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội; Nơi ở: Số ** ngõ 71 P, phường Bồ Đề, quận L Biên, Hà Nội; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Nguyễn Ngọc L và bà: Lê Bích L; Tiền án, tiền sự: Không; Danh bản, chỉ bản số 482 ngày 27/9/2021 do Công an quận Đống Đa lập; Tạm giữ, tạm giam: Bị bắt ngày 18/09/2021; Hiện bị tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.

2/ Nguyễn Hải L, sinh năm: 2000; Hộ khẩu Thường trú: Số 29 ngõ 118 tổ 25C phố N, phường P, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Tự do; Con ông: Nguyễn Ngọc V; Con bà: Nguyễn Thị H; Tiền án, tiền sự: Không; Danh bản, chỉ bản số 477 ngày 27/9/2021 do Công an quận Đống Đa lập; Tạm giữ, tạm giam: Bị bắt ngày 18/09/2021; Hiện bị tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.

3/ Trịnh Quang D, sinh năm: 2000; Hộ khẩu Thường trú: Số 78 ngõ V, phường V, quận Đống Đa, Hà Nội; Chỗ ở: Số *** ngõ V, phường Văn Chương, quận Đống Đa, Hà Nội; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Tự do; Con ông: Trịnh Quang T; Con bà Nguyễn Kim A; Tiền án, tiền sự: Không; Danh bản, chỉ bản số 481 ngày 27/9/2021 do Công an quận Đống Đa lập; Tạm giữ, tạm giam: Bị bắt quả tang ngày 18/09/2021; Hiện bị tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.

4/ Lại Huyền T, sinh năm: 2000; Hộ khẩu Thường trú: Số **  ngõ 16 phố T, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Lại Ngọc H; Con bà: Vũ Lệ T; Tiền án, tiền sự: Không; Danh bản, chỉ bản số 480 ngày 27/9/2021 do Công an quận Đống Đa lập; Tạm giữ, tạm giam: Bị bắt quả tang ngày 18/09/2021; Hiện bị tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.

5/ Đặng Quốc B, sinh năm: 2000; Hộ khẩu Thường trú: Tổ 2 Cụm 1, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội; Chỗ ở: 280 phố Đ, phường H, quận Thanh Xuân, Hà Nội; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Tự do; Con ông: Đặng Quang T; Con bà: Nghiêm Thúy Đ; Tiền án, tiền sự: Không; Danh bản, chỉ bản số 479 ngày 27/9/2021 do Công an quận Đống Đa lập; Tạm giữ, tạm giam: Bị bắt ngày 18/09/2021; Hiện bị tạm giam. Vắng mặt tại phiên tòa.

6/ Nguyễn Anh T, sinh năm: 2000; Hộ khẩu Thường trú: Tập thể in N, phường H, quận Đống Đa, Hà Nội; Chỗ ở: Phòng *** Khu A Tập thể in Ngân hàng, phường Hàng Bột, quận Đống Đa, Hà Nội; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Sinh viên - Trường Đại học Lao động - Xã hội; Con ông: Nguyễn Mạnh C, Con bà: Đỗ Thị Kim N; Tiền án, tiền sự: Không; Danh bản, chỉ bản số 476 ngày 27/9/2021 do Công an quận Đống Đa lập; Tạm giữ, tạm giam: Bị bắt ngày 18/09/2021; Hiện bị tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.

7/ Trần Lê Hoài N, sinh năm: 2000; Hộ khẩu Thường trú: Số 63 phố V, phường V, quận Đống Đa, Hà Nội; Chỗ ở: số **  Phố H, phường Phố Huế, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội; Trình độ văn hóa: 11/12; Nghề nghiệp: Tự do; Con ông: Trần Xuân Tr; Con bà: Nguyễn Thị Phương N; Tiền án, tiền sự: Không; Danh bản, chỉ bản số 483 ngày 27/9/2021 do Công an quận Đống Đa lập; Tạm giữ, tạm giam: Bị bắt ngày 18/09/2021; Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn ngày 27/9/2021; Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo Lê Gia B, Nguyễn Hải L, Trịnh Quang D, Lại Huyền T, Đặng Quốc B, Nguyễn Anh T và Trần Lê Hoài N bị Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa truy tố về hành vi như sau:

Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 18/9/2021, Công an phường Phương Mai tiến hành kiểm tra hành chính tại phòng 206 chung cư Kinh Đô, 102 Trường Chinh, phường Phương Mai, quận Đống Đa, Hà Nội. Tại đây có Lê Gia B, Nguyễn Hải L, Trịnh Quang D, Lại Huyền T, Nguyễn Quốc B, Nguyễn Anh T, Trần Lê Hoài N. Quá trình kiểm tra cơ quan Công an đã phát hiện và thu giữ:

- Thu giữ của L 01 túi nilông màu trắng kích Tớc 2x3cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng;

- Thu giữ của B 01 đĩa sứ màu trắng hình tròn, đường kính 20cm, bên trong đĩa có tinh thể màu trắng, 01 tờ tiền Polymer mệnh giá 10.000 đồng được cuốn hình ống, 01 thẻ sinh viên mang tên Nguyễn Hải L, kích Tớc 6x8cm, 07 túi nilông màu trắng hình chữ nhật kích Tớc 2x3cm;

- Thu giữ của D 01 đèn nhãn hiệu Laser Stage Lighting màu đen, 01 loa nhãn hiệu Harman kardon;

Ngoài ra, Cơ quan Công an còn thu giữ của L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro màu xám, loại 64Gb lắp sim 0971074664; thu giữ của B 01 điện thoại Iphone XS Max màu vàng có ốp nhựa màu đen, lắp sim 0941059204; thu giữ của B 1.500.000 đồng và 01 điện thoại Iphone XS max lắp số 0947130123; thu giữ của D 01 điện thoại Iphone X màu trắng lắp sim số 0353476496; thu giữ của T 01 điện thoại Iphone màu hồng, lắp sim 0333733582; thu giữ của T 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen lắp sim 0987495655; thu giữ của N 01 điện thoại Iphone 6 màu vàng lắp sim 0923688500.

Tại Bản kết luận giám định số 6942/KLGĐ-PC09 ngày 26/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông là ma túy loại Ketamine, khối lượng: 1,267 gam.

- Tinh thể màu trắng bên trên mặt 01 đĩa sứ màu trắng đường kính 20 cm là ma túy loại Ketamine, khối lượng: 0,522 gam.

- 01 tờ tiền polymer mệnh giá 10.000 đồng được cuốn thành hình ống, 01 thẻ sinh viên mang tên Nguyễn Hải L và 07 túi nilông đều có dính ma tuý loại Ketamine.

Qua điều tra đã xác định: Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 17/9/2021, B, L, B và D ngồi uống rượu tại nhà D (số 78 ngõ Văn Chương, phường Văn Chương, quận Đống Đa, TP Hà Nội) thì B rủ L, D, B cùng sử dụng ma túy, tất cả đều đồng ý. Sau đó, B B L rủ thêm T (T là người yêu của B nhưng do đang giận nhau nên B nhờ L rủ T). L đã nhắn tin bằng điện thoại di động qua ứng dụng messenger rủ T đi sử dụng ma tuý cùng và hỏi về việc sử dụng ma túy tại phòng 206 chung cư Kinh Đô (là chỗ làm của T) nhưng T chưa đồng ý. Lúc này B bảo L phải rủ T sử dụng ma tuý thì T mới đồng ý, L tiếp tục nhắn tin qua ứng dụng messenger rủ T và B T rủ T đi cùng. Qua trao đổi, T nói với L có cả người yêu T là N muốn sử dụng ma tuý cùng và hỏi hết khoảng bao nhiêu tiền để chuẩn bị. L đã hỏi B và B bảo khoảng 1.200.000 đồng/1 người nên L nhắn tin báo giá tiền cho T, T nói T và N chỉ sử dụng chung 01 suất vì sáng hôm sau còn phải đi làm. Đồng thời T nhắn tin qua ứng dụng messenger rủ T sử dụng ma tuý tại phòng 206 chung cư Kinh Đô, 102 Trường Chinh (là chỗ làm của T) thì T đồng ý. Sau đó, T nhắn tin cho L nói T đã đồng ý và hẹn cả nhóm cùng đến khu vực đầu ngõ 16 Trung Liệt, Đống Đa, Hà Nội là nhà của T để đi đến phòng 206 chung cư Kinh Đô.

Sau khi uống rượu tại nhà D, B có việc nên đi về trước còn B, L, D đi đến nhà T. Trên đường đến nhà T, D đã đưa cho B 1.500.000 đồng để góp tiền sử dụng ma tuý. B cầm tiền rồi dùng điện thoại Iphone XS Max lắp sim số 0947130123 gọi điện cho một N thanh niên tên L có số điện thoại 0844793333 để hỏi mua 06 viên ma tuý “Kẹo” và 1,5 “chỉ” ma tuý loại Ketamine thì được L báo giá 7.135.000 đồng. Khi B, L, D đến đầu ngõ 16 Trung Liệt thì gặp T và N. Cả nhóm đứng đợi một lúc thì T đi ra, B, T, T, N đi đến chung cư Kinh Đô trước còn L, D đi mua nước và về nhà D lấy loa mang đến chung cư Kinh Đô sau.

Tại phòng 206 chung cư Kinh Đô, B thông báo N và T phải góp 1.200.000 đồng để sử dụng ma tuý thì cả hai đều đồng ý. Một lúc sau, L và D mang 01 chiếc loa nhãn hiệu Harman kardon và nước đến phòng 206 chung cư Kinh Đô. Tại phòng 206 chung cư Kinh Đô, theo B khai B đã dùng tài khoản số 2000126086666 của mình mở tại ngân hàng Tơng mại cổ phần quân đội (MB) chuyển khoản số tiền 4.000.000 đồng vào số tài khoản 19034723215016 của ngân hàng TMCP Kỹ Tơng Việt N (Techcombank) mang tên Phùng Hải L để thanh toán trước một phần tiền mua ma tuý đồng thời thoả thuận việc giao ma tuý tại khu vực đầu ngõ 102 Trường Chinh. Khoảng 15 phút sau B rủ D xuống lấy ma tuý tại điểm hẹn (B soi đèn pin ở điện thoại di động cho D ở nhặt ma tuý ở bãi cỏ). Khi lấy được ma tuý, D cầm ma tuý cùng B đi lên phòng 206 chung cư Kinh Đô. Tại phòng 206, chung cư Kinh Đô, B sử dụng số điện thoại 0947130123 gọi điện vào số 0941059204 của B để thông báo địa chỉ sử dụng ma túy và dặn B cầm một chiếc đĩa đi để sử dụng Ketamine. Còn D bóc bọc ma túy vừa lấy về mở ra bên trong có 06 túi nilon mỗi túi chứa 01 viên ma túy tổng hợp “Kẹo” và 02 túi Ketamine. D đã lấy 01 viên sử dụng riêng còn bẻ 01 viên làm hai đưa N, T sử dụng chung. B, L T mỗi người sử dụng một viên. Số ma túy chưa sử dụng L cất vào túi quần phía trước bên phải. Một lúc sau, B xuống đón B lên phòng và để chiếc đĩa sứ B mang đến trên bàn. L đã đưa cho B 01 viên ma túy tổng hợp “Kẹo”, B cầm và hỏi L số lượng ma túy mua là bao nhiêu thì L B 06 viên ma tuý “Kẹo” và lấy ra 02 túi ma tuý Ketamine cho B xem. Sau đó, B sử dụng 01 viên ma túy “Kẹo” còn L đổ 01 túi ma tuý Ketamine ra đĩa để trên bàn, còn 01 túi ma tuý L vẫn cất trong túi quần phía trước bên phải. Đồng thời L đưa cho D tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng để D quấn làm tẩu sử dụng ma tuý Ketamine. Đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 18/9/2021, khi cả nhóm đang sử dụng ma túy thì bị tổ công tác Công an phường Phương Mai đến kiểm tra, phát hiện, bắt giữ.

Tại cơ quan điều tra Lê Gia B, Nguyễn Hải L, Trịnh Quang D, Lại Huyền T, Nguyễn Quốc B, Nguyễn Anh T, Trần Lê Hoài N khai nhận hành vi đã thực hiện như đã nêu trên.

Đối với đối tượng bán trái phép chất ma tuý cho B trên cơ sở lời khai của B, Cơ quan điều tra đã xác minh tại ngân hàng Techcombank và tổng Công ty Hạ tầng mạng được cung cấp chủ đăng ký số điện thoại 0844793333 và số tài khoản 9034723215016 là của Phùng Hải L (Sinh năm: 1997, nơi cư trú: Số 153B tổ 19, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, TP Hà Nội). Tại cơ quan điều tra Phùng Hải L thừa nhận có sử dụng số điện thoại 0844793333, số tài khoản 19034723215016 tại ngân hàng Techcombank. Tuy nhiên L không thừa nhận hành vi bán trái phép chất ma tuý cho B. L khai số tiền 4.000.000 đồng mà B chuyển khoản đến là tiền B trả để mua điện thoại. Hiện chứng cứ, tài liệu thu thập được trong quá trình điều tra chưa đủ căn cứ để xem xét trách nhiệm hình sự đối với Phùng Hải L.

Đối với Vũ Văn Hiệp (sinh năm 1994, trú tại: phòng 206, chung cư Kinh Đô, 102 Trường Chinh, phường Phương Mai, Đống Đa, Hà Nội – là người thuê phòng 206 chung cư Kinh Đô để bán hàng online). Qua điều tra xác định Hiệp không biết việc T là nhân viên của Hiệp sử dụng trái phép chất ma tuý tại phòng 206. Vì vậy không có căn cứ xử lý đối với Vũ Văn Hiệp.

Đối với số ma túy, 01 đĩa sứ màu trắng trên mặt đĩa có chứa tinh thể màu trắng, 01 thẻ sinh viên kích Tớc 6x8cm mang tên Nguyễn Hải L, 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng được cuốn thành hình ống hút, 07 túi nilon kích Tớc 2x3cm, 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro màu trắng thu giữ của Nguyễn Hải L; 01 điện thoại di động Iphone XS Max màu vàng, 1.500.000 đồng thu giữ của Lê Gia B; 01 đèn nhãn hiệu Laser Stage Lighting màu đen, 01 loa nhãn hiệu Harman kardon màu đen, 01 điện thoại di động Iphone X màu trắng thu giữ của Trịnh Quang D; 01 điện thoại di động Iphone màu hồng thu giữ của Lại Huyền T; 01 điện thoại Iphone XS Max màu vàng thu giữ của Đặng Quốc B, 01 điện thoại di động Iphone 7 plus màu đen thu giữ của T; 01 điện thoại di động Iphone 6 màu vàng thu giữ của Trần Lê Hoài N, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Đống Đa đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản Cáo trạng số 10/CT-VKSĐĐ ngày 04 tháng 01 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội đã truy tố Lê Gia B, Nguyễn Hải L, Trịnh Quang D, Lại Huyền T, Đặng Quốc B, Nguyễn Anh T, Trần Lê Hoài N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo B, L, D, T, T, N khai nhận: Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 18/9/2021, tại phòng 206 chung cư Kinh Đô - số 102 Trường Chinh, phường Phương Mai, quận Đống Đa, Hà Nội, B, L, D, T, B, T và N đã có hành vi cất giấu trái phép 1,789 gam ma túy loại Ketamine, mục đích để cùng sử dụng.

Bị cáo B vắng mặt tại phiên tòa, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo đã đề nghị: Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, (khoản 2 đối với bị cáo T) Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt các bị cáo Lê Gia B từ 16 đến 20 tháng tù; Nguyễn Hải L từ 16 đến 20 tháng tù; Trịnh Quang D từ 16 đến 20 tháng tù; Lại Huyền T từ 16 đến 20 tháng tù; Đặng Quốc B từ 14 đến 18 tháng tù; Nguyễn Anh T từ 14 đến 18 tháng tù; Trần Lê Hoài N từ 14 đến 18 tháng tù; Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo; xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào nội dung vụ án, các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Đống Đa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự và không có ai khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định khởi tố, truy tố của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện được coi là hợp pháp.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình đã thực hiện, lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định và tài liệu khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, nên đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 18 tháng 9 năm 2021, tại phòng 206 chung cư Kinh Đô - số 102 Trường Chinh, phường Phương Mai, quận Đống Đa, Hà Nội. Lê Gia B, Nguyễn Hải L, Trịnh Quang D, Lại Huyền T, Nguyễn Quốc B, Nguyễn Anh T, Trần Lê Hoài N có hành vi tàng trữ trái phép 1,789 gam ma tuý loại Ketamine, mục đích để sử dụng; hành vi của các bị cáo đã bị tổ công tác Công an phường Phương Mai đã phát hiện, bắt giữ. Hành vi của các bị cáo đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có cơ sở, đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, làm mất trật tự trị an xã hội, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các hành vi vi phạm pháp luật khác.

Xét tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của từng bị cáo thì thấy: Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, cùng rủ nhau góp tiền mua ma túy để cùng nhau sử dụng. Trong vụ án bị cáo B là người khởi xướng, chủ động rủ, chủ động đưa ra số tiền góp để sử dụng ma túy, chủ động giao dịch mua ma túy, nhận ma túy; dặn B chuẩn bị đĩa; Bị cáo T đồng phạm tích cực, cung cấp địa điểm, cùng các bị cáo khác sử dụng ma túy; do vậy, bị cáo B và T cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cao hơn so với các bị cáo khác trong vụ án; Bị cáo L với vai trò giúp sức tích cực rủ T và T, trực tiếp sử dụng và cất giấu ma túy trong túi quần nên cũng cần có mức án nghiêm khắc, thấp hơn bị cáo B và cao hơn các bị cáo khác trong vụ án là phù hợp với vai trò của bị cáo; Bị cáo B cung cấp đĩa là công cụ để cùng nhau sử dụng ma túy theo lời dặn của bị cáo B nên cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc nhưng thấp hơn bị cáo B, T, L; Bị cáo D tuy mang loa nhưng không phải công cụ trực tiếp đưa ma túy vào người; bị cáo T và N phạm tội do bị rủ rê, có mức độ, nên cũng cần có mức án nghiêm khắc cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đều khai báo thành khẩn, có thái độ tỏ ra ăn năn hối cải, nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bố bị cáo D được tặng giấy khen, kỷ niệm chương…nên áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo D; để giảm cho các bị cáo một phần hình phạt, thể hiện sự khoan hồng của nhà nước để các bị cáo sớm có cơ hội sửa chữa sai lầm, tu dưỡng, rèn luyện thành công dân lương thiện có ích cho gia đình và xã hội.

Hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo chưa có việc làm, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Xử lý vật chứng:

- Đối với tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng có dính ma túy, đĩa, số ma túy thu giữ của các bị cáo là vật chứng của vụ án, không có giá trị sử dụng và thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy;

- Đối với số tiền 1.500.000 đồng thu giữ của bị cáo B; điện thoại thu giữ của các bị cáo L, B, B, T, T; 01 đèn nhãn hiệu Laser Stage Lighting màu đen, 01 loa nhãn hiệu Harman kardon các bị cáo dùng vào việc thực hiện tội phạm nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với điện thoại thu giữ của bị cáo N và D, thẻ sinh viên mang tên Nguyễn Hải L: xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho các bị cáo.

Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Lê Gia B, Nguyễn Hải L, Trịnh Quang D, Lại Huyền T, Đặng Quốc B, Nguyễn Anh T và Trần Lê Hoài N phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Căn cứ: Điểm g khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, (khoản 2 đối với bị cáo D) Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt:

- Bị cáo Lê Gia B 16 (mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ (ngày 18/9/2021).

- Bị cáo Lại Huyền T 16 (mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ (ngày 18/9/2021).

- Bị cáo Nguyễn Hải L 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ (ngày 18/9/2021).

- Bị cáo Đặng Quốc B 14 (mười bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ (ngày 18/9/2021).

- Bị cáo Trịnh Quang D 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ (ngày 18/9/2021).

- Bị cáo Nguyễn Anh T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ (ngày 18/9/2021).

- Bị cáo Trần Lê Hoài N 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam (từ ngày 18/9/2021 đến ngày 27/9/2021).

Căn cứ: Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136, 290, 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Tờng vụ Quốc hội (quy định về án phí, lệ phí Tòa án).

Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 1.500.000 đồng thu giữ của bị cáo B theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 21/01/2022 (nợ TK 1112, có TK 3949).

Số vật chứng có tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng số 80 ngày 21/01/2022 giữa Công an quận Đống Đa với Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội phản ánh được xử lý như sau:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng Hùng, cán bộ công an phường Hoàng Đức Anh, người chứng kiến và bị cáo Nguyễn Hải L; 01 phong bị niêm phong có chữ ký của cán bộ công an phường Trần Anh Vũ, người chứng kiến và bị cáo L, B, T, T, B, N, D (bên trong có 10.000 đồng); 01 đĩa niêm phong.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 đèn nhãn hiệu Laser Stage Lighting màu đen, 01 loa nhãn hiệu Harman kardon; 01 điện thoại Iphone SX Max màu vàng; điện thoại Iphone Pro màu xám; điện thoại Iphone 6S màu hồng; 01 điện thoại Iphone SX Max màu vàng; 01 điện thoại Iphone 7 plus;

- Trả cho bị cáo D 01 điện thoại Iphone X màu trắng; Trả cho bị cáo N 01 điện thoại Iphone 6 màu vàng, Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị cáo vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 35/2022/HS-ST

Số hiệu:35/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;