Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 35/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 35/2022/HS-ST NGÀY 03/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu , tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 314/2021/HSST ngày 23 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2021/QĐXX–HS ngày 04 tháng 01 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2022/HSST-QĐ ngày 14-01-2022; Thông báo mở phiên tòa số 09/2022/TB - MPT ngày 17-02-2022, đối với bị cáo:

Phạm Văn S (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1990 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn M, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp : Không; Cha Phạm Văn B, sinh năm: 1966 và mẹ Lê Thị L, sinh năm: 1971; Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có hai anh em.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 26-8-2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu. (có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 26-8-2021, tại khu vực cầu Gò Găng, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Công an xã Long Sơn phối hợp với Lực lượng kiểm soát phòng chống dịch Covid 19 bắt quả tang Phạm Văn S đang có hành vi tàng trữ 03 (ba) gói nilon hàn kín bên trong chứa chất kết tinh không màu trong suốt.

Quá trình điều tra, S khai nhận 03 (ba) gói nilon bị cơ quan chức năng thu giữ là ma túy loại Heroin, S khai bản thân nghiện ma túy từ tháng 7 năm 2019. Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 26-8-2021, S tự điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 72C2 - 306.27 đến khu vực Xóm Lăng, phường Thắng Nhì, thành phố Vũng Tàu mua 03 gói ma túy nêu trên của người phụ nữ (không rõ nhân thân, lai lịch) với giá 900.000đ nhằm mục đích sử dụng, khi S đi đến cầu Gò Găng, xã Long Sơn thì bị lực lượng chức năng bắt quả tang như nêu trên.

Bản kết luận giám định số 446/KLGĐ-PC09-MT ngày 03 tháng 9 năm 20 2 1 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, kết luận : Mẫu chất kết tinh không màu trong suốt chứa trong 03 (ba) gói nylon hàn kín gửi đến giám định có khối lượng 2,2828 gam, là chất ma túy, loại Heroin.

Việc thu giữ và xử lý vật chứng, tài sản:

- 03 (ba) gói nylon hàn kín, bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt (Kết luận giám định số 446/KLGĐ-PC09-MT ngày 03 tháng 9 năm 2021).

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh nước biển, số Imei: 357698104864764.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển kiểm soát số 72C2 -306.27, số khung: RLCUE220KY134727, số máy: E3X9E692283. Đối với xe mô tô qua xác minh d o anh Phạm Văn T, sinh năm: 1993 (HKTT: Thôn M, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) đứng tên chủ sở hữu. Anh T cho S mượn xe để đi công việc và không biết S sử dụng xe để đi mua ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả xe cho anh T .

Vật chứng, tài sản còn lại hiện đang do Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý.

Bản cáo trạng số 309/CT-VKSTPVT ngày 15-11-2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Phạm Văn S về tội “Tàng trữ bán trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ Luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo S, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phạm Văn S mức án từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về xử lý vật chứng, tài sản: Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma tuý là tang vật vụ án; Trả lại điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh nước biển, số Imei: 357698104864764 cho bị cáo S do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Căn cứ lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa, đối chiếu lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật bị thu giữ, bản kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 26-8-2021, tại khu vực cầu Gò Găng, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, lực lượng chức năng bắt quả tang Phạm Văn S đang tàng trữ khối lượng 2,2828 gam, là chất ma túy, loại Heroin với mục đích để sử dụng. Vì vậy, hành vi của bị cáo S đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố là đúng người đúng tội đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến việc quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ ma túy để sử dụng không những gây tác hại vô cùng nghiêm trọng đến sức khỏe của bị cáo mà còn là nguyên nhân phát sinh lây lan tệ nạn nghiện, hút ma túy, nhiều tệ nạn xã hội khác và các căn bệnh truyền nhiễm, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương . Bị cáo đang trong độ tuổi lao động, có sức khỏe, nhưng không chịu rèn luyện bản thân, lao động kiếm sống để làm người lương thiện, có ích cho gia đình, xã hội mà thực hiện hành vi vi phạm pháp luật là tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt hình phạt tù có thời hạn và mức hình phạt phù hợp, đủ mức răn đe giáo dục bị cáo, đồng thời bảo đảm phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:

[4.1] Tình tiết tăng nặng: Không.

[4.2] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng trong vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy 03 (ba) gói nylon hàn kín, bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt (Kết luận giám định số 446/KLGĐ-PC09-MT ngày 03 tháng 9 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) là tang vật trong vụ án.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh nước biển, số Imei: 357698104864764 của bị cáo S không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo S.

[6] Các vấn đề khác: Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho S do không rõ lai lịch nên chưa có căn cứ để xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

Tuyên bố:

QUYẾT ĐỊNH

Bị cáo Phạm Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn S 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26-8-2021.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là tang vật vụ án theo Kết luận giám định số 446/KLGĐ-PC09-MT ngày 03 tháng 9 năm 2021.

Trả lại 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh nước biển, số Imei: 357698104864764 cho bị cáo S.

Vật chứng, tài sản nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 55/BB.THA ngày 05-01- 2022.

3.Về án phí: Bị cáo Phạm Văn S phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong th ời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử theo thủ tục phúc thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 35/2022/HS-ST

Số hiệu:35/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;