Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B T, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 31/2021/HSST NGÀY 23/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 12 năm 2021, tại Hội trường xét xử - Tòa án nhân dân huyện B T, tỉnh T H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2021/HSST ngày 29 tháng 11 năm 2021. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 12năm 2021.

Đối với bị cáo: Trương Ngọc Th; Tên gọi khác: Không;

Sinh ngày: 02 tháng 8 năm 1992, tại xã Đ L, huyện B T, tỉnh T H.

Nơi cư trú: Thôn C L, xã Đ L, huyện B T, tỉnh T H.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Trương Văn T và bà Hà Thị B Gia đình có ba anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Chưa có vợ con Tiền sự: Không; Tiền án: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 11/9/2021 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 00 phút, ngày 11/9/2021 tổ Công tác Công an huyện B T phối hợp với Công an xã Đ L làm nhiệm vụ tiến hành kiểm tra lưu trú tại nhà nghỉ C T tại thôn C L, xã Đ L, huyện B T. Quá trình kiểm tra hành chính phát hiện tại phòng ngủ của nhân viên nhà nghỉ có hai đối tượng không có giấy tờ tùy thân là Trương Ngọc Th và Nguyễn Hà M. Trên đầu giường phòng ngủ Th và M đang ở có 01 vở bao thuốc lá màu xanh nhãn hiệu 555 (ba số 5), bên trong có chứa 01 gói giấy bạc. Bên trong gói giấy bạc có chứa 05 viên nén màu hồng Th khai đó là hồng phiến. Tổ Công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật.

Tại bản Kết luận giám định số: 2883/PC09 ngày 15/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: 05 viên nén màu hồng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 0,510g loại Methamphetamine.

Vật chứng của vụ án:- 01 (một) phong bì niêm phong do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành. Phía trước phong bì có ghi “Phong bì niêm phong mẫu vật vụ: Trương Ngọc Th”. Phía sau phong bì được dán kín và niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên: Lê Minh T1, Lê Mạnh H và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa. Bên trong chứa: Toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong và 0,410g (không phẩy bốn mươi mốt gam) là ma túy, loại Methamphetamine mẫu vật còn lại sau khi giám định.

Quá trình điều tra, truy tố Thao khai tối ngày 10/9/2021 có Đ (Tato) ở xã Á T xuống rủ Th và Phạm Văn L cùng ra cánh đồng khu vực thôn C L, xã Đ L sử dụng hồng phiến. Đ lấy trong túi ra 15 viên hồng phiến cả ba cùng dùng còn lại 05 viên hồng phiếnTh gói vào giấy bạc cầm về. Sáng ngày 11/9/2021 Thao đưa cho C béo ở thôn T, xã Đ L cầm hộ. Tối ngày 11/9/2021 Th đi nhờ xe của chị H1 xuống ngã ba xã Đ L gặp C để lấy 05 viên hồng phiến gói trong giấy bạc. Khi Th đi đến nhà nghỉ C T nhặt được vỏ bao thuốc lá 555 (ba số 5) Thao đã bỏ gói giấy bạc chứa 05 viên hồng phiến vào bao thuốc lá đi vào phòng nghỉ của một nhân viên nhà nghỉ C T thấy có một người trong phòng là Nguyễn Hà M. Th nằm lên giường của Hà M và bỏ bao thuốc lá ra đầu giường. Hà M không biết Th có ma túy và không biết việc Th tàng trữ trái phép chất ma túy.

Quá trình điều tra lấy lời khai và đối chất giữa Trương Ngọc Th và Phạm Quốc Đ sinh năm 1998 ở thôn G, xã Á T (Đ Tato) và Phạm Văn L đều khai không biết Th “tàng trữ trái phép chất ma túy”, không dùng ma túy cùng với Th. Tiến hành các biện pháp điều tra khác không chứng minh được L và Đ liên quan đến việc tàng trữ ma túy của Th.

Đối với Bùi Văn C sinh năm 1993 ở thôn T, xã Đ L. C khai không gặp Th và không biết việc Th “tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đối với chị H1 khi Thao xin đi nhờ không biết Th đi đâu làm gì.

Tại bản cáo trạng số: 03/CT-VKSBT-MT ngày 29/11/2021, Viện Kiểm sát nhân dân huyện B T, tỉnh T H đã truy tố bị cáo Trương Ngọc Th về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Tại phiên toà,đại diện VKSND huyện B T giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù, trừ thời gian tạm giữ, tạm giam cho bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 cuả BLHS và khoản 2 Điều 106 của BLTTHS. Đề nghị HĐXX tịch thu tiêu hủy toàn bộ vật chứng là ma túy còn lại sau giám định.

Về án phí: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 136 của BLTTHS và các Điều 21, 23 của Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, của Viện kiểm sát huyện B T trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại gì.

[2]. Về tội danh: Có căn cứ xác định: Khoảng 22 giờ, ngày 11/9/2021 bắt quả tang Trương Ngọc Th có cất giữ 05 viên hồng phiến có trọng lượng 0,510g loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng. Đủ căn cứ kết luận bị cáo Trương Ngọc Th phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện B T truy tố bị cáo Trương Ngọc Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã vi phạm nghiêm trọng về chế độ quản lý Nhà nước về việc cất giữ, vận chuyển, trao đổi chất ma túy. Trong tình trạng thực tế, hiện tượng nghiện hút, tiêm chích ma túy đang là vấn đề cảnh báo trên địa bàn và là vấn nạn của toàn xã hội. Ma túy đã làm băng hoại đạo đức, thuần phong mỹ tục, tan nát bao gia đình và là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác như “trộm cắp”; “lừa đảo”; “cố ý gây thương tích”; thậm chí “giết người” cũng chỉ để thỏa mãn mục đích có tiền để hút hít... Do đó cần phải được xử lý nghiêm. Xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian, đủ để cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt và tránh xa ma túy. Đây cũng là lời cảnh tỉnh đối với những người không làm chủ bản thân trước những cám dỗ và cái kết phải đứng trước phiên tòa xét xử ngày hôm nay để nhận hình phạt tương ứng với hành vi vi phạm pháp luật hình sự của mình.

[4]. Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáoTrương Ngọc Th không có tiền án, tiền sự và thành khẩn khai báo hành vi phạm tội trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập ổn định, không phạt bổ sung đối với bị cáo.

HĐXX xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian, đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người tốt. Có thời gian để bị cáo cai nghiện, khi trở lại với cộng đồng bị cáo làm chủ được bản thân, sống có ích cho gia đình và xã hội.

Đối với L và Đ không thừa nhận việc sử dụng ma túy cùng Th và không biết Th “tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bùi Văn C không thừa nhận việc gặp Th và không biết, không liên quan đến hành vi tàng trữ ma túy của Th. Quá trình điều tra không chứng minh được L, Đ và C liên quan đến hành vi phạm tội của Th. Nên không có căn cứ xử lý hình sự đối với L, Đ, C trong vụ án này.

Đối với chị H cho bị cáo Th đi nhờ xe nhưng không biết Th đi đâu làm gì nên không vi pháp pháp luật.

[5] Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện B T.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự;

- Điểm a khoản 2 điều 106; Khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

2. Tuyên bố: Bị cáo Trương Ngọc Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

3. Xử phạt bị cáo Trương Ngọc Th 24 (Hai mươi tư) tháng tù. Hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (11/9/2021). Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo thi hành án.

- Không phạt bổ sung đối với bị cáo Trương Ngọc Th.

4. Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì niêm phong do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành. Phía trước phong bì có ghi “Phong bì niêm phong mẫu vật vụ: Trương Ngọc Th”. Phía sau phong bì được dán kín và niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên: Lê Minh T1, Lê Mạnh H và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T H. Bên trong chứa: Toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong và 04 (bốn) viên nén màu hồng có tổng khối lượng là 0,410g (không phẩy bốn mươi mốt gam) là ma túy, loại Methamphetamine mẫu vật còn lại sau khi giám định.Toàn bộ vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện B T theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 02 ngày 24/11/2021.

5.Về án phí: Bị cáo Trương Ngọc Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Án sơ thẩm có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2021/HSST

Số hiệu:31/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bá Thước - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;