Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 135/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 135/2021/HSST NGÀY 05/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 05/5/2021, tại trụ sở TAND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 74/2021/TLST-HS ngày 15/4/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh T, sinh năm 1988; Giới tính: Nam Nơi ĐKNKTT: Số xx đường Đ, tổ 14, phường Định Công, quận Hoàng Mai, Hà Nội.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do Con ông Nguyễn Thanh B và bà Nguyễn Thị Kim O Bị cáo có vợ là Lê Thị Mai H, sinh năm 1993; Có 01 con sinh năm 2017.

Tiền án: 03 tiền án:

+ Tại Bản án số 238/2008/HSST ngày 24/12/2008, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 8 năm tù về tội “Hiếp dâm trẻ em”. Ra trại ngày 30/08/2011.

+ Tại Bản án số 190/2013/HSST ngày 25/07/2013, Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ra trại ngày 24/09/2015.

+ Tại Bản án số 04/2017/HSST ngày 16/01/2017, Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Hà Nội xử phạt 14 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (tàng trữ 2,320 gam cần sa, dùng bản án số 190/2013/HSST ngày 25/07/2013 là căn cứ định tội). Ra trại ngày 01/09/2020.

Tiền sự: Không Nhân thân: Tháng 12/2011, Công an phường Đ, Hoàng Mai, Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính: phạt tiền 750.000đ về hành vi “Đánh nhau, gây rối trật tự công cộng”, đã nộp phạt.

Bị bắt quả tang ngày 30/12/2020, tạm giữ ngày 31/12/2020 – Có mặt

Người có quyền lợi nghĩa vụ có liên quan: Chị Lê Thị Mai H, sinh năm 1993 Nơi ĐKNKTT: Số xx đường Đ, tổ 14, phường Đ, quận Hoàng Mai, Hà Nội – Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị VKSND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội truy tố về hành vi phạm tội như sau: Nguyễn Thanh T là đối tượng nghiện ma túy, thường tìm mua ma túy để sử dụng. Tuấn khai: Vào khoảng 16 giờ ngày 30/12/2020, một người phụ nữ tên Ngọc là bạn xã hội của Tuấn (hiện không xác định được nhân thân lai lịch gọi cho Tuấn bảo đi mua ma túy rồi mang đến phòng 301 nhà nghỉ Bảo Nam, đường Hồ Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội để cùng sử dụng, Tuấn đồng ý. Khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, Tuấn gọi cho Hoàng Thu Thanh (SN: 1985; HKTT: số 112, Phùng Khoang 2, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội) sử dụng số điện thoại 0962724359 hỏi mua 1,5 gam ma túy đá với giá 1.000.000đ. Sau đó, Tuấn điều khiển xe máy Honda SH BKS 73F1 - 399.54 đến khu vực ngã ba Lương Thế Vinh, phường Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội gặp Thanh. Nhận được tiền, Thanh chỉ cho Tuấn vị trí để bao thuốc lá Thăng Long ở trên mặt đất. Tuấn hiểu ý là ma túy nên điều khiển xe máy ra nhặt bao thuốc lá lên, mở bên trong thấy có 01 gói ni lông chứa ma túy đá nên đã cất vào túi áo khoác bên trái rồi điều khiển xe máy đi về nhà nghỉ Bảo Nam để gặp Ngọc. Trong lúc Tuấn đứng ở vị trí quầy lễ tân thì bị tổ công tác công an phường Mễ Trì kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Vật chứng thu giữ: 01 túi ni lông kích thước 03 x 06 cm bên trong chứa tinh thể màu trắng, nghi là ma túy; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long; 01 xe máy Honda SH màu trắng BKS 73F1- 399.54; 01 điện thoại di động Iphone XS max màu vàng gắn sim số 0981788858; 01 điện thoai di động Itel màu đen gắn sim số 0982591336 và 0948116555.

Tại bản kết luận giám định số 326/KLGĐ-PC09 ngày 07/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội xác định: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 1,147 gam.

Tại bản cáo trạng số 76/CT-VKS ngày 09/4/2021 của VKSND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Kết thúc phần tranh tụng; Tại phần tranh luận, đại diện VKS đọc bản luận tội đối với bị cáo. Nội dung bản luận tội đã phân tích nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo; Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ áp dụng đối với bị cáo và khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 6 đến 7 năm tù; Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo;

Về xử lý vật chứng: Trả lại chị Huế 01 điện thoại di động Iphone XS max màu vàng gắn sim số 0981788858; Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoai di động Itel màu đen gắn sim số 0982591336 và 0948116555. Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, số ma túy đã được niêm phong trong phong bì có chữ ký giáp lai của Nguyễn Thanh T và giám định viên, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long; Vật chứng có liên quan đến vụ án được niêm phong trong 01 phong bì thư có chữ ký của Hoàng Thu Thanh và giám định viên.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng số 76 ngày 09/4/2021 của VKSND quận Nam Từ Liêm đã truy tố bị cáo. Bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố và lời luận tội của đại diện VKS đối với bị cáo tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo không tranh luận với lời luận tội của đại diện VKS. Tại lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, HĐXX nhận định: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với các tài liệu chứng cứ và lời khai trước đây của bị cáo có tại hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ 45 phút ngày 30/12/2020, tại nhà nghỉ Bảo Nam, địa chỉ số 6 ngõ 2, đường Hồ Mễ Trì, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, Nguyễn Thanh T đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,147 gam Methamphetamine để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS.

Xét cáo trạng truy tố và lời trình bày luận tội của đại diện VKSND tại phiên tòa là có căn cứ nên được chấp nhận.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Là nguyên nhân làm phát sinh một số loại tội phạm khác. Trực tiếp hủy hoại sức khỏe đối với người sử dụng, gây mất trật tự trị an, làm băng hoại đạo đức, phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân trên địa bàn nơi xảy ra tội phạm.

Về nhân thân của bị cáo: Tính đến ngày phạm tội, bị cáo đang có 03 tiền án chưa được xoá án tích. Lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, là tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS.

Xét cần xử phạt bị cáo một mức án tương ứng với tính chất mức độ hành vi của bị cáo đã gây ra. Cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung: “Phạt tiền” cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật và điều kiện thực tế của bị cáo.

Liên quan trong vụ án còn có Hoàng Thu Thanh khai nguồn gốc số tinh thể màu trắng đã thu giữ trong quá trình điều tra là bột MHM dùng để chữa xương khớp, đồng thời Thanh cũng thừa nhận có quen biết với Nguyễn Thanh T và là người sử dụng số thuê bao 0962724359 nhưng không thừa nhận bán ma túy cho Tuấn vào ngày 30/12/2020. Kết quả thu giữ điện tín xác định không có số điện thoại của T gọi đến cho Th. Cơ quan điều tra tiến hành đấu tranh với Tuấn để làm rõ mâu thuẫn trong lời khai thì Nguyễn Thanh T đã thay đổi lời khai về nguồn gốc ma túy, Tuấn khai mua của 1 người đàn ông không quen biết ở ngã ba đường Lương Thế Vinh, Phùng Khoang, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội. Tiến hành rà soát không xác định được tên tuổi địa chỉ người đàn ông trên. Do đó không có căn cứ để xử lý đối với Hoàng Thu Thanh và người đàn ông bán ma túy cho Tuấn.

Đối với người phụ nữ tên Ngọc sử dụng số điện thoại 0878337369 rủ Tuấn mua ma túy cùng sử dụng (như Tuấn khai). Xác minh người đăng ký số thuê bao 0878337369 là anh Nguyễn Hoàng Phúc (sinh năm 1989; HKTT: Tổ 6, Trưng Trắc, Phúc Yên, Vĩnh Phúc). Quá trình điều tra xác định anh Phúc và gia đình không có mặt tại địa chỉ trên. Do đó không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH màu trắng BKS 73F1- 399.54, số máy JF73E0082625, số khung RLHJF7303GY082549 thu giữ của Nguyễn Thanh T dùng để đi mua ma túy. Quá trình điều tra xác định chủ sở hữu xe là chị Lê Thị Mai Huế (vợ bị cáo). Ngày 30/12/2020 chị Huế cho Tuấn mượn xe để đi mua sữa cho con, chị Huế không biết Tuấn sử dụng xe trên đi mua ma túy. Do đó, Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm đã trao trả chiếc xe máy trên cho chị Huế là phù hợp.

Số vật chứng còn lại gồm: 02 điện thoại di động, 01 chiếc hiệuIphone XS max màu vàng gắn sim số 0981788858; Xác định là của chị Huế (vợ bị cáo) cho mượn để chơi điện tử và cầm theo khi phạm tội nên cần trả cho chị Huế. 01 điện thoai di động hiệu Itel màu đen gắn sim số 0982591336 và 0948116555 bị cáo dùng liên lạc khi phạm tội nên cần tịch thu sung công. Số ma túy còn lại và vỏ bao thuốc lá cũng như chất bột màu trắng giám định không phải là ma túy cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, 47 BLHS; Điều 106, 136, 329 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Nguyễn Thanh T 07 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 31/12/2020.

Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Trả lại chị Lê Thị Mai Huế 01 điện thoại di động Iphone XS max màu vàng gắn sim số 0981788858; Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoai di động Itel màu đen gắn sim số 0982591336 và 0948116555. Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, số ma túy đã được niêm phong trong phong bì có chữ ký giáp lai của Nguyễn Thanh T và giám định viên, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long, chất bột màu trắng trong 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Hoàng Thu Thanh và giám định viên.

(Đặc điểm vật chứng đúng như biên bản giao nhận vật chứng số 140 ngày 13/4/2021 giữa Cơ quan điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm).

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí HSST.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

403
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 135/2021/HSST

Số hiệu:135/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;