Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 309/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 309/2021/HSST NGÀY 13/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13/7/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 324/2021/HSST ngày 21/6/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 312/2021/QĐXXST- HS ngày 23/6/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Y, Tên gọi khác: Không;Sinh ngày: 01/3/1976.

Nơi cư trú: T 14, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 4/12; Nghề nghiệp: Không; Họ và tên bố: Nguyễn Văn P, sinh năm 1952; Họ và tên mẹ: Lê Thị T, sinh năm 1954; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Họ và tên vợ: Nguyễn Thị P, sinh năm 1981, có 02 con, lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2014.

Tiền án: Tại bản án HSST số 279 ngày 08/9/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Đã thi hành xong hình phạt tù; chưa thi hành khoản tiền bồi thường, đã nộp án phí ngày 08/7/2011.

Nhân thân: - Tại bản án HSST số 170 ngày 11/9/1999 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/3/2000, đã nộp án phí ngày 09/6/2002.

- Tại bản án HSST số 136 ngày 12/9/2002 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bản án HSPT ngày 15/11/2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/12/2003, đã nộp án phí ngày 25/6/2003.

- Tại Quyết định số 190 ngày 28/5/2002 của Công an thành phố Thái Nguyên xử phạt 50.000 đồng về hành vi “Trộm cắp” .

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/4/2021 đến nay).

(Có mặt tại phiên tòa);

Người chứng kiến: Ông Nguyễn Công Đ, sinh năm 1958, trú tại Tổ dân phố G, phường Đ, thành phố T. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ 55 phút ngày 07/4/2021, tại khu vực tổ dân phố Đ thuộc phường Đ, thành phố T, tổ công tác của Công an phường Đ, thành phố T, phát hiện 01 người nam giới có biểu hiện nghi liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra thì người nam giới khai họ tên là Nguyễn Văn Y và tự giác lấy trong lòng bàn tay trái giao nộp cho tổ công tác 01 gói giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng. Y khai chất bột màu trắng là ma túy loại Heroine, Y mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ và niêm phong của vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong, cân số chất bột màu trắng có trong gói giấy bạc màu trắng thu giữ của Y có khối lượng 0,112 gam và lấy 0,036 gam cho vào bì niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định, còn lại 0,076 gam cho vào bì ký hiệu A2 để lưu kho .

Tại bản kết luận giám định số 722/KL-KTHS ngày 16/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Mâu ch ất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng thu giữ ban đầu là 0,112 gam .

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Y khai nhận: Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 07/4/2021, Y đi bộ từ nhà đến khu vực tổ dân phố Đ, thuộc phường Đ, thành phố T, mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Đến nơi Y gặp và mua 50.000 đồng của 01 người nam giới không rõ lai lịch địa chỉ được 01 gói Heroine, được bọc gói bên ngoài bằng lớp giấy bạc màu trắng. Sau khi mua được ma túy Y cầm trong lòng bàn tay trái rồi đi tìm nơi sử dụng, khi Y đi được khoảng 500m thì bị tổ công tác của Công an phường Đ, thành phố T phát hiện yêu cầu kiểm tra nên Y đã tự giác giao nộp cho tổ công tác gói ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Lời khai nhận tội của Nguyễn Văn Y phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ có liên quan và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án: 02 bì niêm phong kí hiệu A1, A2 bên trong chứa ma túy hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Bản cáo trạng số 326/CT-VKSNDTPTN ngày 18/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố Nguyễn Văn Y về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, trong phần luận tội đối với bị cáo, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Y phạm tội Tàng trữ trái phép ma túy. Đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h, khoản 1, Điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự... Đề xuất xử phạt Nguyễn Văn Y mức án từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Vật chứng của vụ án: 02 bì niêm phong ký hiệu A1, A2 bên trong có chứa chất ma túy cần tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận và thừa nhận việc truy tố, xét xử là không oan, đúng người, đúng tội.

Nói lời sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm đoàn tụ cùng gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc kiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố là đúng người, đúng tội. Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến và những chứng cứ, tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Hồi 08 giờ 55 phút ngày 07/4/2021 tại khu vực tổ dân phố Đ thuộc phường Đ, thành phố Thái Nguyên, Nguyễn Văn Y đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,112 gam Heroine, mục đích sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Đ, thành phố T phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng.

[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Bị cáo là người đủ năng lực trách nhiệm dân sự và biết ma túy là vật cấm và được Nhà nước quản lý nhưng vẫn cố tình tàng trữ 0,122 gam Heroine để mục đích sử dụng cho bản thân. Do vậy hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy...thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………….

c, Heroine…có khối lượng từ 0,1 đến dưới 05 gam”.

Do vậy bị cáo phải chịu hình phạt mà điều luật đã quy định.

[4] Xét tính chất mức độ của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an ở địa phương và là một trong các nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội khác.

[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo đã bị 02 lần xét xử về hành vi Trộm cắp tài sản vào năm 1999 và năm 2009 và đã bị xử phạt hành chính vào năm 2002.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại Bản án số 279/2009/HSST ngày 08/9/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt Yên 19 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản và phải chịu án phí HSST và phần bồi thường dân sự. Chấp hành xong hình phạt tù và đã thi hành xong phần án phí theo quy định. Nhưng đến nay bị cáo chưa thi hành khoản tiền bồi thường và người được thi hành vẫn đề nghị bị cáo phải thực hiện khoản tiền đó. Căn cứ khoản 2 Điều 70 BLHS và mục 7 Công văn số 64/2019 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành thì bị cáo chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung là các quyết định khác của bản án, do vậy trường bị cáo phạm tội lần này bị cáo chưa được đương nhiên xóa án tích nên bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng tách nhiệm hình sự là "Tái phạm" quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự Từ những nội dung nêu trên Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu và bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân để trở thành công dân có ích cho xã hội lại nghiện ma túy mà tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý do đó nên cần có hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo gây ra để giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong xã hội. HĐXX thấy cần xử phạt bị cáo mức án từ 24 đến 30 tháng tù là phù hợp..

[6] Vật chứng của vụ án: Cần tịch thu tiêu hủy 02 bì niêm phong kí hiệu A1, A2 theo quy định.

[7] Về hình phạt bổ sung và án phí: Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính lẽ ra Hội đồng xét xử phạt bổ sung bị cáo. Tuy nhiên bị cáo là người nghiện ma túy, không có công ăn việc làm ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Bởi các lẽ trên;

Tuyên bố:

QUYẾT ĐỊNH

1. Bị cáo Nguyễn Văn Y phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự.

2. Xử phạt: Nguyễn Văn Y 24 (hai bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/4/2021.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự, tịch thu tiêu hủy: - 01 bì niêm phong theo đúng quy định ký hiệu A1 bên trong chứa 0,026 gam mẫu A1 hoàn sau giám định và vỏ bao chứa mẫu, mặt sau phong bì niêm phong có 02 dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của đồng chí Trần Đức T.

- 01 bì niêm phong ký hiệu A2 chứa 0,076 gam ma túy mẫu tách lưu kho có 03 dấu tròn đỏ của cơ quan CSĐT Công an TP Thái Nguyên.

Hiện được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên theo tình trạng biên bản giao nhận vật chứng số 435 ngày 03/6/2021

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật Phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn Y phải nộp 200.000đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 309/2021/HSST

Số hiệu:309/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;