Bản án 06/2021/HS-ST ngày 11/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, TP.HÀ NỘI

BẢN ÁN 06/2021/HS-ST NGÀY 11/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 340/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 351/2020/QĐXXST-HS ngày 24/11/2020 đối với 2 bị cáo:

QVH – sinh năm: 1997; HKTT và chỗ ở: thôn YP – xã YQ – huyện NQ – tỉnh NB; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Mường; quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; nghề nghiệp: Tự do; Con ông: QVC và bà: QTT; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con lớn; TATS: 01 TA.

Bản án số 179/2017/HSST ngày 12/12/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử 26 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngay 06/9/2017, bị án ra trại ngày 30/8/2019. Nộp án phí ngày 20/01/2018 (bị cáo chưa được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 10/07/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 – Công an thành phố Hà Nội.

( Bị cáo có mặt).

VQL – sinh năm: 1992 ; HKTT và chỗ ở: thôn NS – xã TL – huyện NC – tỉnh TH; trình dộ văn hóa: 9/12; dân tộc:Kinh;quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; nghề nghiệp:Tự do; Con ông: VQH và bà: NTN; Gia đình có 03 anh em bị cáo là con thứ 2; Vợ: ĐTKN; Có 01 con sinh năm 2014; TATS: 2 tiền sự.

Ngày 23/11/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 15 tháng. Ngày 17/12/2017 chấp hành xong. Ngày 25/3/2020, Công an xã Tượng Lĩnh, huyện Nông Cống, Thanh Hóa xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản, chưa nộp phạt. (Chưa hết thời hiệu) Bị cáo bị bắt từ ngày 10/7/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 – Công an thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trên cơ sở kết quả điều tra đã xác định được như sau:

Khoảng 21h20’ ngày 10/7/2020, tổ công tác Công an phường Thạch Bàn, Long Biên, Hà Nội phối hợp với Đại đội 3 Trung đoàn CSCĐ, Công an thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ tại khu vực trước số nhà 386, đường Nguyễn Văn Linh thuộc tổ 16, phường Thạch Bàn, Long Biên, Hà Nội phát hiện VQL điều khiển xe máy BKS:33N8-9979 chở sau QVH đi trên đường có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành dừng xe kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, Cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang QVH có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong tang vật và đưa QVH cùng VQL về trụ sở giải quyết.

Tang vật thu giữ:

Tang vật thu giữ của QVH gồm: 02 túi nilong màu trắng bên trong mỗi túi có chứa 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng Tang vật thu giữ của VQL gồm: 01 xe máy honda wave BKS: 33N8-9979, 01 điện thoại Nokia màu đen đã qua sử dụng.

*Bản kết luận giám định số 6154/KLGĐ-PC09 ngày 17/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: chất bột màu trắng bên trong 02 gói giấy bạc màu vàng đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng: 0,597 gam.

Tại cơ quan điều tra, Công an quận Long Biên, QVH và VQL khai nhận:

Khoảng 15h ngày 10/7/2020, VQL mượn xe máy BKS: 33N8-9979 của chủ cai xây dựng đi đến Kiêu Kỵ, Gia Lâm, Hà Nội để mua thuốc đau bụng. Tại đây, L gặp và làm quen với QVH, H bảo L chở H đi lên Từ Sơn, Bắc Ninh mua ma túy và hứa khi nào mua được ma túy thì sẽ cho L một ít để cùng sử dụng, L đồng ý. L điều khiển xe máy trên chở H đi đến 01 ngõ nhỏ ở Từ Sơn, Bắc Ninh. Tại đây, L đứng ở đầu ngõ còn H đi vào trong ngõ gặp và mua của 01 người phụ nữ không quen biết 02 gói ma túy heroine với giá 400.000 đồng. H cầm số ma túy vừa mua được cất vào túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi đi bộ ra ngoài. H đi ra đầu ngõ gặp và nói với L là đã mua được ma túy rồi bảo L chở về tìm nơi để cùng sử dụng ma túy. Khi L chở H đi đến trước số nhà 386 đường Nguyễn Văn Linh thuộc tổ 16, phường Thạch Bàn, Long Biên, Hà Nội thì bị Cơ quan Công an kiểm tra phát hiện thu giữ số ma túy nêu trên. Tại chỗ H khai nhận 02 gói ma túy nêu trên là của H mua về để sử dụng cho bản thân. Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong tang vật và đưa H, L cùng tang vật về trụ sở để làm việc.

Lời khai của QVH và VQL phù hợp nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng có mặt tại hiện trường và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Đối với người phụ nữ bán trái phép chất ma túy cho H tại khu vực Từ Sơn, Bắc Ninh. Do H và L khai không biết gì về nhân thân, lai lịch người này, không nhớ địa điểm mua ma túy nên Cơ quan CSĐT Công an quận Long Biên không có căn cứ để điều tra làm rõ.

Đối với 01 xe máy BKS honda wave BKS: 33N8-9979, kết quả điều tra xác định chiếc xe máy này có đăng ký tên ĐĐL(SN:1984, HKTT: Đội 11, QB, CM, Hà Nội). Năm 2006, anh L mua và đăng ký chính chủ chiếc xe máy trên với giá 10.000.000 đồng. Đến tháng 4 năm 2020, anh L bán lại chiếc xe máy trên cho 01 người đàn ông không quen biết ở Hà Nội với giá 1.000.000 đồng. Khi bán xe anh L đã làm mất giấy tờ xe, chỉ viết giấy mua bán xe. Anh LVA (SN:1993, HKTT: TS, NC, TH là chủ cai xây dựng của VQL) khai mua chiếc xe máy trên vào tháng 4 năm 2020 với giá 1.000.000 đồng để làm phương tiện đi lại, anh A đã làm mất giấy tờ mua bán. Ngày 10/7/2020, VQL mượn anh VA chiếc xe máy trên để đi mua thuốc đau bụng, việc L tàng trữ trái phép chất ma túy anh VA không biết. Qua tra cứu, chiếc xe máy trên không nằm trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Do vậy, Cơ quan CSĐT Công an quận Long Biên đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe máy BKS:33N8-9979 cho anh LVA.

Tại phiên tòa: Các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Tại bản cáo trạng số: 329 /CT-VKS ngày 18/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận Long Biên đã truy tố các bị cáo về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của người làm chứng phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra thấy rằng: Hành vi của bị cáo QVH và VQL đã đủ yếu tố cấu thành tội:

“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi của các bị cáo vi phạm vào điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS 2015.

Các bị cáo đều thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51.

Đối với bị cáo QVH do phạm tội khi chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38 của BLHS 2015. Đề nghị xử phạt bị cáo QVH mức án từ 32 đến 36 tháng tù.

Đối với bị cáo VQL có 2 tiền sự chưa hết thời hiệu.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của BLHS 2015. Đề nghị xử phạt bị cáo VQL mức án từ 20 đến 22 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,597 gam heroin.

- Đề nghị trả lại cho bị cáo L 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen nhưng giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Nói lời sau cùng, 02 bị cáo đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật-tài liệu, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

HĐXX có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 21h20’ ngày 10/7/2020, trước số nhà 386, đường Nguyễn Văn Linh thuộc tổ 16, phường Thạch Bàn, quận Long Biên, thành phố Hà Nội QVH và VQL đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,597 gam ma túy loại Heroine mục đích để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Thạch Bàn, Long Biên, Hà Nội phối hợp với Đại đội 3 Trung đoàn CSCĐ, Công an thành phố Hà Nội phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố 2 bị cáo về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự 2015 là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy được Bộ luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, cần phải nghiêm trị đối với các bị cáo.

[3] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

- Đối với bị cáo QVH: Ngày 12/12/2017 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử 26 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngay 06/9/2017, bị cáo ra trại ngày 30/8/2019. Nộp án phí ngày 20/01/2018 (bị cáo chưa được xóa án tích).

Ngày 04/11/2020 Tòa án Nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái đã đưa ra xét xử bị cáo về tội “ Trộm cắp tài sản” và tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” với mức hình hình phạt chung cho hai tội là 4 năm tù, bị cáo kháng cáo, bản án chưa có hiệu lực pháp luật do đó HĐXX không tổng hợp hình phạt.

Trường hợp phạm tội lần này của bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm”. Bị cáo đã có thời gian chấp hành án, được các cơ quan pháp luật giáo dục nhưng không lấy đó làm bài học sửa chữa các khuyết điểm của bản thân mà trong một thời gian ngắn liên tiếp phạm tội.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong vụ án bị cáo QVH có vai trò chủ mưu, rủ rê lôi kéo bị cáo L phạm tội do đó cần buộc bị cáo H phải chịu mức hình phạt nặng hơn là phù hợp. Xét tính chất và mức độ phạm theo quy định pháp luật cần áp dụng hình phạt tù giam đối với bị cáo để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

- Đối với bị cáo VQL: Ngày 23/11/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 15 tháng. Ngày 17/12/2017 chấp hành xong.

Ngày 25/3/2020, Công an xã Tượng Lĩnh, huyện Nông Cống, Thanh Hóa xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản, chưa nộp phạt. (Chưa hết thời hiệu).

Bị cáo có vai trò thực hành tích cực, đã được đưa đi cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng vẫn tái nghiện.

Xét tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của các bị cáo thấy cần áp dụng hình phạt tù giam đối với các bị cáo để đảm bảo tình nghiêm minh của pháp luật.

-[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đều thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

Khi lượng hình, Hội đồng xét xử thấy nên mở lượng khoan hồng cho các bị cáo và chỉ cần xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt cũng đủ tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng mức hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp với pháp luật.

Đối với người phụ nữ bán trái phép chất ma túy cho H tại khu vực Từ Sơn, Bắc Ninh. Do H và L khai không biết gì về nhân thân, lai lịch người này, không nhớ địa điểm mua ma túy nên Cơ quan CSĐT Công an quận Long Biên không có căn cứ để điều tra làm rõ.

[5] Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.

- Về xử lý vật chứng:

[6] - Tịch thu tiêu hủy 0,597 gam heroin.

- Trả lại cho bị cáo L 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen nhưng giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Đại diện VKSND quận Long Biên đề nghị về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp với nhận định của HĐXX.

- Về án phí:

[7] Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo:

[8] Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo QVH và VQL phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

Xử phạt: bị cáo QVH 32 ( Ba mươi hai ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10 /7/2020.

Xử phạt: bị cáo VQL 22 (Hai mươi hai ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10 /7/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 1 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy 0,597 gam ma túy loại Heroine.

(Hiện đang lưu giữ tại Kho tang vật Công an quận Long Biên theo Phiếu nhập vật chứng ngày 05 /8 /2020).

- Trả lại cho bị cáo VQL 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen nhưng giữ lại để đảm bảo thi hành án.

(Hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Long Biên theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 23 /11 /2020)

3. Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Các bị cáo mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 bộ luật Tố tụng Hình sự. Án xử công khai sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2283
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2021/HS-ST ngày 11/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:06/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;