Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 29/2022/HS-ST NGÀY 22/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 3 năm 2022, tại Hội trường xét xử, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 32/2022/TLST-HS ngày 02/3/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Vũ Văn S, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 11 tháng 6 năm 1974, tại tỉnh Hải Dương.

Nơi ĐKHKTT: Tổ 7, phường N, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/12 Họ và tên cha: Vũ Văn H, sinh năm 1930 (Đã chết). Họ và tên mẹ: Bùi Thị G, sinh năm 1930 (Đã chết).

Vợ: Nông Thị A, sinh năm 1974, nghề nghiệp: Giáo viên; trú tại: Tổ 7, phường N, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.

Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2004.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại: Có mặt tại phiên tòa. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Nông Thị A. Trú tại: Tổ 7, phường N, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 30 phút ngày 11/11/2021, tại khu vực tổ Khuổi Thuổm, phường Huyền Tụng, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, tổ công tác Đội CSĐT tội phạm về Kinh tế và Ma túy Công an thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn bắt quả tang đối với Vũ Văn S về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Qua kiểm tra phát hiện, thu giữ tại túi quần bò đằng sau bên trái Vũ Văn S đang mặc có 01 (một) gói giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng bên trong có 02 (hai) gói đều được gói bằng loại giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng, bên trong mỗi gói đều có chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy. Tổ công tác tiến hành niêm phong tang vật nêu trên trong phong bì ký hiệu S1. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của Vũ Văn S 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng, 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JUPITER màu đỏ, đã qua sử dụng, biển kiểm soát 97F9 - 4263 cùng chìa khóa xe.

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Kạn tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng niêm phong trong phong bì ký hiệu S1 xác định được tổng khối lượng là 0,24g (không phẩy hai bốn gam). Sau khi cân xác định khối lượng, toàn bộ số chất bột màu trắng nêu trên được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1 gửi trưng cầu giám định chất ma túy.

Tại kết luận giám định số 182/KTHS-MT ngày 19/11/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,24g (không phẩy hai bốn gam)” .

Tại Cơ quan điều tra, Vũ Văn S khai nhận: toàn bộ số chất bột màu trắng bị thu giữ trong quá trình bắt quả tang là chất ma túy, loại Heroine do Vũ Văn S mua với một người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) vào khoảng 09 giờ ngày 11/11/2021 tại khu vực ngã ba Phòng khám Tâm Bắc thuộc tổ 11, phường Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. Sau khi mua được ma túy, Vũ Văn S cất giấu ma túy vào túi quần bò đằng sau bên trái rồi đi đến khu vực tổ Khuổi Thuổm, phường Huyền Tụng, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn thì bị tổ công tác Đội CSĐT TP tội phạm về Kinh tế và Ma túy Công an thành phố Bắc Kạn bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật như đã nêu trên.

* Về vật chứng gồm:

- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước phong bì ký hiệu T182 và dòng chữ “Vụ: Vũ Văn S (1974) tàng trữ trái phép chất ma túy”. Mặt sau phong bì có 02 (hai) chữ ký niêm phong không đọc được và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn.

- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước phong bì ký hiệu A2 và dòng chữ “Phong bì và giấy gói cũ vụ Vũ Văn S lưu hồ sơ vụ án”. Mặt sau phong bì có 06 (sáu) chữ ký niêm phong không đọc được, 02 (hai) dòng chữ Vũ Văn S và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Kạn.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE, vỏ màu trắng đã qua sử dụng, bên trong có lắp 01 (một) sim điện thoại VIETTE.

- 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JUPITER màu đỏ, biển kiểm soát 97F9-4263 cùng chìa khóa xe.

Bản cáo trạng số 10/CT - VKSTPBK ngày 01/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố Vũ Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015, điều luật có nội dung:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

Heroine, Methamphetamine…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và điều khoản như đã viện dẫn ở trên đồng thời đề nghị HĐXX xử lý như sau:

Tuyên bố bị cáo Vũ Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 15 đến 20 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành bản án, bị cáo được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 11/11/2021 đến ngày 18/11/2021.

2. Hình phạt bổ sung: Không phạt bổ sung.

3. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS 2015.

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước phong bì ký hiệu T182.

- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước phong bì ký hiệu A2.

Vật chứng là: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE, vỏ màu trắng đã qua sử dụng, bên trong có lắp 01 (một) sim điện thoại VIETTE và 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JUPITER màu đỏ, biển kiểm soát 97F9-4263 cùng chìa khóa xe. Cơ quan điều tra đã trả cho chủ sở hữu hợp pháp là đúng nên không có đề nghị gì.

Về án phí buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 11/11/2021, tại khu vực tổ Khuổi Thuổm, phường Huyền Tụng, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, Vũ Văn S có hành vi tàng trữ trái phép 0,24g (không phẩy hai bốn gam) ma túy, loại Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân thì bị Cơ quan điều tra phát hiện, bắt quả tang, thu giữ người và tang vật.

Với hành vi nêu trên, bị cáo Vũ Văn S đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Việc truy tố, xét xử đối với bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Hành vi bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương.

[3] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo Vũ Văn S sinh ra và lớn lên tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, từ năm 12 tuổi cùng gia đình đến sinh sống tại phường Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, được gia đình nuôi ăn học đến hết lớp 8/12, sau đó thôi học làm nghề lao động tự do, nghiện chất ma túy từ năm 2009. Tháng 5/2011, Vũ Văn S bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đến ngày 08/5/2012 chấp hành xong trở về sinh sống tại địa phương. Ngày 11/11/2021, có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và đã ăn năn hối cải do đó được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ là “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS và 01 tình tiết quy định tại khoản 2 điều 51 BLHS bị cáo có bố đẻ là ông Vũ Văn Hoan được Nhà nước trao tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhì, có mẹ đẻ là bà Bùi Thị Gái được Nhà nước trao tặng Huân chương kháng chiến hạng Ba.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[4] Hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo Vũ Văn S không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản, do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung “phạt tiền” đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với vật chứng gồm.

- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước phong bì ký hiệu T182 và dòng chữ “Vụ: Vũ Văn S (1974) tàng trữ trái phép chất ma túy”. Mặt sau phong bì có 02 (hai) chữ ký niêm phong không đọc được và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn.

- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước phong bì ký hiệu A2 và dòng chữ “Phong bì và giấy gói cũ vụ Vũ Văn S lưu hồ sơ vụ án”. Mặt sau phong bì có 06 (sáu) chữ ký niêm phong không đọc được, 02 (hai) dòng chữ Vũ Văn S và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Kạn. Tình trạng phong bì niêm phong còn nguyên vẹn. Hiện đang bảo quản theo quy định.

Là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên xét thấy cần áp dụng Điều 47 BLHS;

Điều 106 BLTTHS 2015. Tịch thu tiêu hủy.

Vật chứng là: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE, vỏ màu trắng đã qua sử dụng, bên trong có lắp 01 (một) sim điện thoại VIETTE và 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JUPITER màu đỏ, biển kiểm soát 97F9-4263 cùng chìa khóa xe, là tài sản riêng của vợ bị cáo, khi bị cáo sử dụng vào việc phạm pháp nhưng vợ bị cáo không biết nên. Cơ quan diều tra đã trả lại cho chị là đúng quy định của pháp luật.

[5] Về những vấn đề khác liên quan đến vụ án:

Đối tượng nam giới là người bán trái phép chất ma túy cho Vũ Văn S vào ngày 11/11/2021. Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể nên không có căn cứ xử lý. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Vũ Văn S 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành bản án, bị cáo được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 11/11/2021 đến ngày 18/11/2021.

2. Hình phạt bổ sung: Không phạt bổ sung.

3. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS 2015.

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước phong bì ký hiệu T182 và dòng chữ “Vụ: Vũ Văn S (1974) tàng trữ trái phép chất ma túy”. Mặt sau phong bì có 02 (hai) chữ ký niêm phong không đọc được và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn.

- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước phong bì ký hiệu A2 và dòng chữ “Phong bì và giấy gói cũ vụ Vũ Văn S lưu hồ sơ vụ án”. Mặt sau phong bì có 06 (sáu) chữ ký niêm phong không đọc được, 02 (hai) dòng chữ Vũ Văn S và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Kạn.

(Tình trạng, số lượng vật chứng theo như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Bắc Kạn và chi Cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn ngày 02/3/2022).

4. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Vũ Văn S phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án,tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2022/HS-ST

Số hiệu:29/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;