Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 28/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG T, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 28/2021/HS-ST NGÀY 27/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 27 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 31/2021/TLST-HS, ngày 29/10/2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2021/QĐXXST-HS ngày 13/12/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phùng Mì X; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ;

Sinh năm 1971, tại: xã Pa Vệ S, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu;

Nơi cư trú: Bản A M, xã Pa Vệ S, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: La Hủ; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: Không biết chữ;

Con ông Phùng Mò X (Đã chết) và con bà Phản Gạ S (Đã chết); Anh, chị, em ruột: Bị cáo có 07 anh, em bị cáo là con thứ ba trong gia đình;

Bị cáo có chồng: Ly Hà X, sinh năm 1972; Nơi ĐKHKTT: Bản A M, xã Pa Vệ S, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu;

Con: Bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 1993, con nhỏ nhất sinh năm 1998;

Tiền sự: Không; Tiền án: Không;

Nhân thân bị cáo ngày 27/9/2016 bị cáo Phùng Mì X bị Tòa án nhân dân huyện Mường T áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm P, khoản 1 khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự: Xử phạt 02 năm 02 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy Đến ngày 27/04/2018, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù theo quyết định của bản án. Đến ngày 15/7/2021 bị Cơ quan CSĐT- Công an huyện Mường T khởi tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo Phùng Mì X đã được xóa án tích theo khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự.

Bị cáo bị bắt, bị tạm giữ từ ngày 06/07/2021 đến ngày 15/07/2021 sau đó bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay tại xã Pa Vệ S, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu. Có mặt.

* Người làm chứng:

Lò Me Ch, sinh năm 1975. Vắng mặt.

Phùng Ha M, sinh năm 1982. Vắng mặt.

Cùng trú tại: Bản A M, xã Pa Vệ S, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu.

* Người phiên dịch: Ông T, trú tại khu phố 8, thị trấn Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu. Có mặt.

*Người bào chữa: Ông N - Luật sư, công tác viên - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ ngày 05/7/2021, Phùng Mì X, sinh năm 1971, trú tại bản A M, xã Pa Vệ S, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu đi bộ từ nhà của mình đến bản Nậm C, xã Bum N, huyện Mường T, mục đích tìm mua ma túy (Heroine) để sử dụng. Khi đi đến bản Nậm C, xã Bum N thì X gặp một người đàn ông lạ mặt. Qua trao đổi X đã mua được của người đàn ông lạ mặt này 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu hồng với giá 300.000 đồng. Sau khi mua được Heroine X đã cất giấu vào trong túi áo khoác bên phải đang mặc trên người rồi tiếp tục đi bộ quay về nhà ở bản A M, xã Pa Vệ S, huyện Mường T. Đến khoảng 22 giờ 00 phút cùng ngày 05/7/2021 khi X về đến bản A M, X không về nhà mà đi về nhà em gái Phùng Ha M, sinh năm 1982, trú cùng bản A M, xã Pa Vệ S để nấu cơm ăn và chơi ở đó. Đến khoảng 00 giờ ngày 06/7/2021 khi X đang chơi ở nhà M thì có Lò Me Ch, sinh năm 1975, là người cùng bản cùng bản đến nhà M chơi, cùng ngồi nói chuyện với nhau. Trong khi ngồi nói chuyện X không cho M và Ch biết việc mình đi mua Heroine và đang cất giấu trong người. Từ đó cho đến 01 giờ 15 phút ngày 06/7/2021 khi X và Ch, M đang ngồi nói chuyện với nhau, thì bị tổ công tác Công an xã Pa Vệ S, huyện Mường T đang làm nhiệm vụ phát hiện có biểu hiện nghi vấn về hành vi tàng trữ chất ma túy, tổ công tác đã yêu cầu X và M, Ch giao nộp cho tổ công tác những đồ vật mà đang tàng trữ chất ma túy để kiểm tra, qua kiểm tra tổ công tác phát hiện thu giữ toàn bộ vật chứng do Phùng Mì X giao nộp cho tổ công tác 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu hồng, X khai nhận đây là 01 gói Heroine của X, không liên quan gì đến M và Ch, X đi mua về để sử dụng vì bản thân là người nghiện chất ma túy. Trước sự việc nêu trên tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phùng Mì X về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và niêm phong lại toàn bộ vật chứng có liên quan theo quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận giám định tư pháp số 82 ngày 06/7/2021 của người giám định tư pháp theo vụ việc Công an huyện Mường T, đã kết luận: 01 (Một) gói vật chứng thu giữ của Phùng Mì X có khối lượng là 0,85 gam và tại bản kết luận giám định số 598 ngày 11/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Mẫu chất bột, màu trắng, gửi đến giám định là ma túy, loại: Heroine.

Cáo trạng số 92/ CT- VKS-MT ngày 28/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T truy tố bị cáo: Phùng Mì X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm C khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề xuất với Hội đồng xét xử, xử bị cáo: Phùng Mì X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng theo điểm C khoản 1 Điều 249; điểm S khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 BLHS, xử phạt bị cáo Phùng Mì X từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 01 mảnh nilon màu hồng sau khi xác định khối lượng vật chứng, về án phí: Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Miễn 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

* Người bào chữa cho bị cáo: Nhất trí quan điểm truy tố đối với bị cáo Phùng Mì X phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị HĐXX áp dụng theo điểm C khoản 1 Điều 249; Điều 38 Bộ luật hình sự; về tình tiết tăng nặng bị cáo không có. Về tình tiết giảm nhẹ trong suốt các giai đoạn tố tụng cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đều thành khẩn khai nhận toàn bộ quá trình phạm tội của mình bị cáo sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Đề nghị HĐXX cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm S khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo với mức án thấp nhất, tương xứng với hành vi của bị cáo. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; về xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 01 mảnh nilon màu hồng dùng sau khi xác định khối lượng vật chứng, về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo là dân tộc thiểu số, có hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đề nghị xem xét miễn nộp án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Đối với người đàn ông lạ mặt đã đã bán Heroine cho Phùng Mì X: Quá trình điều tra không xác định được lai lịch nên không có cơ sở xem xét xử lý.

Đối với Phùng Ha M và Lò Me Ch là người ngồi chơi tại nhà X: Việc X “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng M và Ch đều không biết, không liên quan.

Do đó Cơ quan CSĐT không xem xét xử lý M và Ch là đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận, nhất trí lời luận tội. Lời nói sau cùng bị cáo: Bị cáo vi phạm pháp luật và biết lỗi sai phạm của mình về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo sẽ cải tạo để trở thành người tốt, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T, Kiểm sát viên: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có ai ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan Điều tra. Đủ cơ sở khẳng định bị cáo Phùng Mì X, sinh năm 1971, với mục đích mua chất ma túy Heroine mang về để sử dụng do bị cáo là người nghiện. Đến 01 giờ 15 phút ngày 06/7/2021 tại nhà của Phùng Ha M thuộc bản A M, xã Pa Vệ S, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu thì bị tổ công tác Công an xã Pa Vệ S, huyện Mường T phát hiện, bắt quả tang thu giữ vật chứng của Phùng Mì X 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu hồng, bị cáo mua với giá 300.000 đồng. Hành vi của bị cáo Phùng Mì X đã tàng trữ trái phép chất ma túy 0,85 gam Heroine. Như vậy hành vi của bị cáo Phùng Mì X đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy “ theo quy định tại điểm C khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015. Tại Điểm C khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyn, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

................

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

....................

Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T truy tố bị cáo theo tội danh như trên là có căn cứ, đúng người, đúng hành vi bị cáo.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma tuý, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương, bị cáo nhận thức được điều đó, nhưng vì mục đích tư lợi, bị cáo đã mua chất ma túy về để sử dụng, khi bị bắt bị cáo Phùng Mì X tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng 0,85 gam Heroine, vì vậy bị cáo phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hậu quả do hành vi mình đã thực hiện. Hội đồng xét xử cần phải áp dụng một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe giáo dục đối với bị cáo.

[4] Tuy nhiên khi lượng hình Hội đồng xét xử cần phải xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Về nhân thân bị cáo X - Ngày 27/9/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Mường T, tỉnh Lai Châu. Xử phạt 02 năm 02 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy Đến ngày 27/04/2018, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù theo quyết định của bản án. Sau khi trở về địa phương bị cáo không tự cải tạo, trở thành người tốt, mà tiếp tục tái nghiện và phạm tội mới, bị cáo có nhân thân xấu là người nghiện chất ma túy. Hiện nay bị cáo X đã được xóa án tích theo khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo X đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 BLHS. “ Hội đồng xét xử chấp nhận một phần đề nghị của người bào chữa, về phần đề nghị của người bào chữa cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất là chưa đảm bảo. Vì bị cáo có nhân thân là người nghiện chất ma túy, đã bị xét xử một lần, do đó bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ hành vi của bị cáo.

[5] Hình phạt bổ sung:

Tại khoản 5 điều 249 BLHS bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, xét thấy hoàn cảnh kinh tế của bị cáo khó khăn, không có tài sản, không có điều kiện thi hành, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 mảnh nilon màu hồng sau khi xác định khối lượng vật chứng cần tịch thu tiêu hủy, HĐXX căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

[7] Án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án. HĐXX nhất trí miễn 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm S khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Phùng Mì X phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Phùng Mì X 01 (Một) năm 10 (Mười) tháng tù.

Bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ là 09 ngày (từ ngày 06/7/2021 đến ngày 15/7/2021).

Thời hạn tù còn lại tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt tù.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 mảnh nilon màu hồng còn lại sau khi xác định khối lượng vật chứng.

Hiện vật chứng vụ án đã chuyển sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường T, tỉnh Lai Châu.

3. Về án phí: Miễn 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Phùng Mì X.

4. Án xử công khai có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 28/2021/HS-ST

Số hiệu:28/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;