Bản án 28/2020/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN X, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 28/2020/HS-ST NGÀY 27/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27/02/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện X xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 12/2019/HSST ngày 16/01/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2020/HSST-QĐ ngày 13/02/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Hùng V; Tên gọi khác: V sạc lô; Sinh năm 1986 tại Đồng Nai; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp S, xã M, huyện C, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở: Ấp A, xã T, huyện X, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Trình độ học vấn: 07/12; Nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Đức H; Sinh năm 1964 và bà Trương Thị Thùy T (đã chết); Vợ: Lê Thị Trà M, sinh năm 1987 (đã ly hôn); Con: Có 01 con sinh năm 2014; Tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 44/2018/HS-ST ngày 16/5/2018, bị Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/5/2019; Tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam ngày 28/10/2019, hiện đang bị tại Nhà tạm giữ Công an huyện X.

- Người làm chứng:

Anh NLC, sinh năm 1997.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 00 giờ ngày 28/10/2019, tại phòng trọ của Nguyễn Hùng V thuộc ấp A, xã T, huyện X, Đồng Nai; Công an xã T, huyện X kiểm tra hành chính phát hiện, bắt quả tang V đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Cụ thể phát hiện tại vị trí cửa sổ trên gác phòng trọ của V có 01 gói ny lon hàn kín kích thước 03cm x 4,5cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng. Ngoài ra, qua kiểm tra còn phát hiện, thu giữ tại vị trí bình nước khoáng trong phòng của V 01 gói ny lon hàn kín kích thước 04cm x 05cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng và 01 tờ nylon được cuộn lại bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng tại vị trí thùng carton trên gác. Nhận được tin báo, Đội Cảnh sát điều tra về tội phạm Kinh tế và Ma túy đến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Hùng V và niêm phong tang vật theo quy định.

Quá trình điều tra xác đinh, Vào lúc 17 giờ cùng ngày, V đến xã Xuân Hiệp, huyện X và nhờ một người bạn tên Tí (chưa rõ nhân thân lai lịch) mua giùm ma túy với số tiền 400.000 đồng. Sau đó, V mang về phòng trọ để cất giấu nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang như trên.

Vật chứng thu giữ: 01 gói ny lon hàn kín, kích thước 03cm x4,5cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng; 01 gói ny lon hàn kín, kích thước 04cm x 05cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng; 01 gói nylon bên trong có chứa tinh thể màu trắng;

01 quẹt gas, 01 kéo kim loại và 01 ống thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy tổng hợp).

Tại Bản kết luận giám định số 1372/PC09-GĐMT ngày 04/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,4865 gam, loại Methamphetamine; Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M21) được niêm phong gửi đến giám định có khối lượng: 3,5127 gam, loại Aluminium Potassium Sulfate; Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M22) được niêm phong gửi đến giám định có khối lượng:

12,4628 gam, loại Aluminium Potassium Sulfate. Aluminium Potassium Sulfate không thuộc Danh mục chất ma túy và tiền chất ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ.

Tại bản cáo trạng số 22/CT-VKS-HS ngày 15/01/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện X truy tố bị cáo Nguyễn Hùng V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện X giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo bản cáo trạng và đề nghị: Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Tái phạm (quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự); Về tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Có con còn nhỏ (quy định tại Điểm s Khoản 1 Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự); Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Nguyễn Hùng V từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì được niêm phong số 1372/PC09-GĐMT của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 quẹt gas; 01 kéo kim loại và 01 ống thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy tổng hợp).

Đối với người thanh niên tên F đi mua giùm ma túy cho V, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện X tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Hùng V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng của vụ án đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào lúc 00 giờ ngày 28/10/2019, tại phòng trọ của Nguyễn Hùng V thuộc ấp 6, xã T, huyện X, Đồng Nai; Công an xã T, huyện X kiểm tra hành chính phát hiện, bắt quả tang V đang có hành vi tàng trữ 01 gói ny lon hàn kín kích thước 03cm x 4,5cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng. Qua giám định xác định, gói nylon nêu trên là ma túy, có khối lượng: 0,4865 gam, loại Methamphetamine. Đối với 01 gói ny lon hàn kín, kích thước 04cm x 05cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng và 01 gói nylon bên trong có chứa tinh thể màu trắng đã thu giữ, qua giám định xác định là chất Aluminium Potassium Sulfate (không phải là ma túy).

Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Hùng V đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

[2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự cần áp dụng đối với bị cáo.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến an toàn trật tự tại địa phương. Việc tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy là nguyên nhân dẫn đến những thiệt hại về tài sản, là nguồn lây lan nhiều căn bệnh nguy hiểm, là nguyên nhân gia tăng các loại tội phạm về hình sự. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Đối với người thanh niên tên F đi mua giùm ma túy cho V, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện X tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 phong bì được niêm phong số 1372/PC09-GĐMT của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 quẹt gas; 01 kéo kim loại và 01 ống thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy tổng hợp) không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Đề nghị của Kiểm sát viên phù hợp một phần với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận phần phù hợp.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện X, Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện X, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[9] Về án phí: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội và bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hùng V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hùng V 01 (Một) năm 10 (Mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/10/2019.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì được niêm phong số 1372/PC09-GĐMT ngày 04/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 quẹt gas; 01 kéo kim loại và 01 ống thủy tinh, hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện X theo biên bản bàn giao tang vật ngày 20 tháng 01 năm 2020.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Hùng V nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

70
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 28/2020/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;