Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 27/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN H, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 27/2022/HSST NGÀY 17/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận H, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2022/TLST - HS ngày 14 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2022/QĐXXST - HS ngày 14 tháng 01 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 17 ngày 27/01/2022; đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn H, sinh năm 1991; Giới tính: Nam; HKTT: Bản H, phường N, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Không cố định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Con ông Lò Văn H, sinh năm 1971, con bà Lù Thị Th, sinh năm 1971; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai; Vợ: Lò Thị Hoa, sinh năm 1992 (đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 2014; Tiền án, Tiền sự: Không. Theo danh chỉ bản số 577 do Công an quận H lập ngày 29/9/2021.

Bắt quả tang ngày 21/9/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an Thành phố Hà Nội. Có mặt.

2. Họ và tên: Tòng Văn H1, sinh năm 1992; Giới tính: Nam; HKTT: Bản H, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Không cố định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Con ông Tòng Văn T, sinh năm 1964, con bà Lò Thị Th, sinh năm 1961; Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ tư; Vợ: Lò Thị C, sinh năm 1995 (đã ly hôn); Có 02 con, con lớn sinh năm 2013 con nhỏ sinh năm 2015;

Tiền án, Tiền sự: Không. Theo danh chỉ bản số 572 do Công an quận H lập ngày 29/9/2021.

Bắt quả tang ngày 21/9/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an Thành phố Hà Nội. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nghiêm Thị N – Trợ giúp viên pháp lý, Chi nhánh trợ giúp pháp lý số 3 thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước Thành phố Hà Nội; Có mặt;

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh Trần Quốc T, sinh năm 1992 (Vắng mặt) Trú tại: Xóm 10, xã N, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Viện kiểm sát nhân dân quận H, Thành phố Hà Nội truy tố:

Khong 12 giờ ngày 21/9/2021, tại khu vực bãi đất trống trên đường Nguyễn Công Thái, phường Đ, quận H, thành phố Hà Nội, tổ công tác Công an phường Đ kiểm tra phát hiện Lò Văn H và Tòng Văn H1 đang đứng cạnh chiếc xe máy màu đỏ, BKS: 29R2-4644 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình kiểm tra thu giữ bên trong chiếc giày bên phải của H 01 gói giấy bạc kích thước (01x02) cm bên trong chứa chất bột màu trắng. Tại chỗ, Lò Văn H và Tòng Văn H1 khai nhận là ma tuý loại Heroine, H và Hư mua về để cùng sử dụng. Ngoài ra, cơ quan công an thu giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu itel màu đỏ; 01 đôi giày vải màu nâu và số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) của Tòng Văn H1; 01 xe máy màu đỏ mang BKS: 29R2-4644 và 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia đã qua sử dụng của Lò Văn H. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng và bàn giao cơ quan điều tra để xác minh làm rõ.

Cơ quan CSĐT công an quận H đã ra Quyết định trưng cầu giám định đối với chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy thu giữ của Lò Văn H. Tại Kết luận giám định số 6967/KLGĐ-PC09 ngày 28/09/2021 của Phòng kỹ thuật Hình sự - CATP Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc màu trắng là ma túy loại Heroine, khối lượng 0, 115 gam.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra, Lò Văn H và Tòng Văn H1 khai nhận:

Khong 11 giờ ngày 21/9/2021, Lò Văn H gọi điện cho Tòng Văn H1 là bạn xã hội rủ đi đến khu vực Giáp Bát, Hoàng Mai, Hà Nội để đi vay tiền, Hư đồng ý. H điều khiển xe máy mang BKS: 29R2-4644 chở Hư đi từ khu vực Tây Hồ xuống bến xe Giáp Bát Hư không vay được tiền. Sau đó, H hỏi Hư còn tiền không thì đi mua ma túy về để cùng sử dụng. Hư đồng ý thì H lấy điện thoại gọi điện cho một nam thanh niên tên là Huy rồi đưa điện thoại cho Hư nói chuyện hỏi mua ma tuý. Hư hỏi mua của Huy 01 gói ma túy loại Heroine với giá 200.000 đồng. Sau đó, H điều khiển xe máy chở theo Hư đi đến khu vực ngõ 337 phố Định Công, quận H, Hà Nội để gặp Huy lấy ma tuý. Tại đây, Hư đưa cho Huy số tiền 500.000 đồng, Huy cầm tiền và trả lại cho Hư 300.000 đồng (gồm 03 tờ mệnh giá 100.000 đồng). Đồng thời, Huy đưa cho H 01 gói ma túy Heroine. Sau khi mua được ma tuý, H đưa gói ma tuý lại cho Hư. Hư cất gói ma tuý vào bên trong chiếc giầy đang đi ở chân phải, sau đó điều khiển xe máy chở Hư đi tìm nơi sử dụng. Khi cả hai đến khu vực bãi đất trống tại đường Nguyễn Công Thái, khu đô thị Đại Kim, quận H, Hà Nội thì bị tổ công tác Công an phường Đ bắt giữ cùng tang vật. Số tiền 200.000 đồng sử dụng để mua ma túy do H không có tiền nên bảo Hư ứng ra trước sau này khi có tiền Lò Văn H sẽ trả lại cho Tòng Văn H1 số tiền 100.000 đồng.

Lời khai của người chứng kiến phù hợp với nội dung lời khai Lò Văn H và Tòng Văn H1.

Tiến hành xét nghiệm ma túy đối với Lò Văn H và Tòng Văn H1, kết quả: Dương tính với ma túy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu itel, màu đỏ thu giữ của Tòng Văn H1, Hư khai nhận là tài sản của Hư sử dụng để liên lạc cá nhân. Quá trình kiểm tra chiếc điện thoại Itel trên không phát hiện thông tin liên quan đến vụ án.

Số tiền 300.000 đồng thu giữ của Tòng Văn H1, Hư khai nhận là số tiền thừa đối tượng bán ma tuý trả lại cho Hư. Số tiền Hư sử dụng để mua ma tuý do lao động mà có.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia thu giữ của Lò Văn H, H khai nhận là tài sản của H. Ngày 21/9/2021 H sử dụng chiếc điện thoại Nokia trên để gọi điện cho một nam thanh niên tên là Huy rồi đưa điện thoại cho Hư hỏi mua ma tuý.

Cơ quan công an đã tiến hành dẫn giải Lò Văn H và Tòng Văn H1 xác định được vị trí mua ma túy tại đầu ngõ 337 phố Định Công, quận H, Hà Nội nHư không xác định được đối tượng Huy bán ma túy cho H và Hư.

Đối với chiếc xe máy màu đỏ mang BKS: 29R2-4644 thu giữ của Lò Văn H qua kiểm tra không phát hiện thu giữ đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh chủ sở hữu là anh Trần Quốc T (Sinh năm: 1992, HKTT: xã N, Nam Trực, Nam Định). Anh Trần Quốc T làm việc tại công trường cùng Lò Văn H và Tòng Văn H1. Ngày 21/9/2021, H và Hư mượn chiếc xe máy trên của anh Tiến để đi việc cá nhân, anh Tiến không biết H và Hư sử dụng xe máy để đi mua ma tuý.

Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKS-HM, ngày 06/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận H, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Lò Văn H, Tòng Văn H1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

[2] Tại phiên tòa:

Bị cáo Lò Văn H, Tòng Văn H1 thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân quận H, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về gia đình và hòa nhập xã hội.

Người bào chữa cho bị cáo Tòng Văn H1 cũng thừa nhận việc truy tố và đưa bị cáo ra xét xử tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên trông quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số thuộc trường hợp được trợ giúp pháp lý của nhà nước nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vì vậy đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất thể hiện sự khoan hồng của nhà nước.

Kiểm sát viên nắm quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lò Văn H, Tòng Văn H1 như Bản cáo trạng. Sau khi phân tích, đánh giá tích chất, mức độ của hành vi phạm tội; nhân thân của bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm đ khoản 1 Điều 32; Điều 38 và điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Bị cáo Tòng Văn H1 được áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 3 Điều 106, 136, 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đối với các bị cáo. Xử phạt:

- Bị cáo Lò Văn H từ 12 tháng đến 16 tháng tù về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, thời hạn tù tính từ ngày bắt quả tang ngày 21/9/2021;

- Bị cáo Tòng Văn H1 từ 12 tháng đến 16 tháng tù về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, thời hạn tù tính từ ngày bắt quả tang ngày 21/9/2021;

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo;

- Tịch thu tiêu hủy 01 bao niêm phong bên trong chứa 0,115gam Heroine.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại Nokia đã qua sử dụng thu giữ của Lò Văn H ;

- Trả lại bị cáo Tòng Văn H1: 01điện thoại di động itel màu đỏ đã qua sử dụng; 01 đôi giầy vải màu nâu và số tiền 300.000đ nHư tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

- Trả lại anh Trần Quốc T 01 chiếc xe máy nhãn hiệu METALLICSTAR màu xanh, SK: 020483, SM: 02028483;

[3] Phần tranh luận tại phiên tòa: Các bị cáo, người bào chữa thừa nhận Kiểm sát viên luận tội đối với hành vi phạm tội của mình là đúng, nên không tranh luận với Kiểm sát viên.

[4] Lời nói sau cùng: Các bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sớm được trờ về gia đình và hòa nhập xã hội;

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận H và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét về hành vi vi phạm bị truy tố:

Tại các Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản thu giữ, niêm phong và mở niêm phong tang vật; Quyết định yêu trưng cầu giám định xác định khối lượng, loại ma túy của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận H, Thành phố Hà Nội cũng như lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liện quan; Kết luận giám định số 6967/KLGĐ – PC09 ngày 28/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội, cùng các tài liệu chứng cứ khác thể hiện:

Khong 12 giờ ngày 21/9/2021, tại khu vực bãi đất trống trên đường Nguyễn Công Thái, phường Đ, quận H, thành phố Hà Nội, Lò Văn H và Tòng Văn H1 đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy loại Heroin, có khối lượng 0,115gam. Nguồn gốc số ma túy này do các bị cáo mua của một nam thanh niên tên là Huy không quen biết với giá 200.000 đồng, tại khu vực ngõ 337 Định Công, Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội, mục đích các bị cáo mua về để sử dụng cho bản thân. Sau khi bị cáo mua được 01 gói ma túy, bị cáo Hư cất gói ma tuý vào bên trong chiếc giầy đang đi ở chân phải, sau đó điều khiển xe máy chở Hư đi tìm nới sử dụng. Khi cả hai đến khu vực bãi đất trống tại đường Nguyễn Công Thái, khu đô thị Đại Kim, Hoàng Mai, Hà Nội thì bị tổ công tác Công an phường Đ kiểm tra và lập biên bản phạm tội quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo Lò Văn H, Tòng Văn H1 đã đủ yếu tố cấu thành “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Các bị cáo Lò Văn H, Tòng Văn H1 là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận H, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo về tội danh và điều luật đã viện dẫn là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

Xét hành vi phạm tội của các bị cáo có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn. Xác định hành vi của bị cáo là tội phạm nghiêm trọng; khối lượng ma túy mà các bị cáo tàng trữ là Heroin có khối lượng: 0,115gam. Hành vi đó đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý; gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người; đồng thời là nguyên nhân dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật khác, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình trật tự trị an xã hội. Do vậy, cần phải xử lý bị cáo nghiêm bằng pháp luật hình sự và áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

Nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Các bị cáo trước khi phạm tội lần này, nhân thân chưa có tiền án tiền sự.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo Tòng Văn H1 là người dân tộc thiểu số thuộc trường hợp được trợ giúp pháp lý của nhà nước nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về vị trí, vai trò: Trong vụ án này bị cáo H là người khởi xướng việc mua ma túy về để sử dụng chung và cùng góp tiền mua ma túy, tuy nhiên các bị cáo chỉ là đồng phạm giản đơn, do vậy các bị cáo đều có vị trí vai trò như nhau trong vụ án theo khoản 1 Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đối với tội phạm về ma túy, ngoài hình phạt chính các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Hội đồng xét xử, xét các bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng lớn nên không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo.

[4] Biện pháp tư pháp: Khi bắt quả tang các bị cáo cơ quan công an thu giữ:

01 bao niêm phong bên trong chứa 0,115gam Heroin và 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia đã qua sử dụng đây là vật chứng liên quan đến tội phạm của các bị cáo. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu itel màu đỏ và số tiền 300.000 đồng; 01 đôi giày vải màu nâu; 01 chiếc xe máy nhãn hiệu METALLICSTAR màu xanh, SK: 020483, SM: 02028483 không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo, khi giải quyết cần căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử lý. Do đó, Hội đồng xét xử nhận định, cần:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bao niêm phong bên trong chứa 0,115gam Heroin; 01 - Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại Nokia đã qua sử dụng thu giữ của Lò Văn H ;

- Trả lại bị cáo Tòng Văn H1: 01điện thoại di động itel màu đỏ, 01 đôi giầy vải màu nâu đã qua sử dụng và số tiền 300.000đ như tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

- Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu METALLICSTAR màu xanh, SK: 020483, SM: 02028483 thu giữ của Lò Văn H. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh chủ sở hữu là anh Trần Quốc T, sinh năm 1992, HKTT: Xóm 10, xã N, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Anh Trần Quốc T làm việc tại công trường cùng Lò Văn H và Tòng Văn H1. Ngày 21/9/2021, H và Hư mượn chiếc xe máy trên của anh Tiến để đi việc cá nhân, anh Tiến không biết H và Hư sử dụng xe máy để đi mua ma tuý. Nên cần trả lại chiếc xe trên cho anh Tiến là có cơ sở.

[5] Các vấn đề khác:

- Đối với nam thanh niên tên Huy đã bán ma túy cho các bị cáo, cơ quan CSĐTCAQ. Hoàng Mai tiến hành dẫn giải các bị cáo đến địa điểm mua ma túy nHư không xác định được đối tượng bán ma túy nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý là có cơ sở.

[6] Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo; người bào chữa; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm đ khoản 1 Điều 32; Điều 38 và điểm c khoản 1 Điều 47; khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 áp dụng đối với Lò Văn H;

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm đ khoản 1 Điều 32; Điều 38 và điểm c khoản 1 Điều 47; khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 áp dụng đối với Tòng Văn H1;

Căn cứ vào khoản 3 Điều 106, 136, 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử phạt:

- Bị cáo Lò Văn H 15 (Mười lăm) tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày bắt quả tang ngày 21/9/2021.

- Bị cáo Tòng Văn H1 13 (Mười ba) tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày bắt quả tang ngày 21/9/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

2. Các vấn đề khác: Không xét.

3. Biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bao niêm phong bên trong chứa 0,115gam Heroin;

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại Nokia, Imeil 357892050364933 thu giữ của Lò Văn H;

- Trả lại bị cáo Tòng Văn H1: 01 điện thoại di động itel màu đỏ. Imeil 354942077856545 và 01 đôi giầy vải màu nâu đã qua sử dụng;

- Trả lại anh Trần Quốc T 01 chiếc xe máy nhãn hiệu METALLICSTAR màu xanh, SK: 020483, SM: 02028483;

Toàn bộ vật chứng nêu trên, đang lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự quận H, Thành phố Hà Nội, theo Phiếu nhập kho số: NK2022-0093, ngày 07/01/2022.

- Trả lại Tòng Văn H1 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nHư tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

Theo giấy nộp vào tài khoản Chi cục thi hành án dân sự quận H ngày 08/12/2021.

4. Về án phí: Bị cáo Lò Văn H, Tòng Văn H1 phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo; người bào chữa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Anh Trần Quốc T có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặn kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 27/2022/HSST

Số hiệu:27/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;