Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HOÀ - TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 26/2022/HS-ST NGÀY 25/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 25/02/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2022/HSST ngày 25 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/QĐXX - HSST ngày 10 tháng 02 năm 2022, đối với bị cáo :

Nguyễn Văn L – sinh năm 1992 NĐKNKTT và chỗ ở: thôn C, xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: N; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt N; con ông: Nguyễn Văn Đ - sinh năm 1963 và bà Dương Thị S – sinh năm 1965; Vợ: Trần Thị H – sinh năm 1997; Bị cáo có hai con: lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2018; Gia đình có ba chị em bị cáo là con cả;

*Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt quả tang bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Hiệp Hòa từ ngày 04/01/2022 đến nay.(Có mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Chị Hoàng Thị Bích H – sinh năm 1979 (Vắng mặt) Địa chỉ: SN X, khối phố Trần Phú, TT Bắc Sơn, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn;

* Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Văn N - sinh năm 1997 (Vắng mặt)

- Anh Ngô Duy H – sinh năm 1976 (Vắng mặt)

Cùng địa chỉ: TDP D, TT Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Hồi 12 giờ 15 phút ngày 04/01/2022, tại khu vực Tổ dân phố Dinh Hương, thị trấn Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Hiệp Hòa bắt quả tang Nguyễn Văn L, sinh năm 1992 ở thôn C, xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hòa đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm: 01(một) túi nilon màu xanh, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ bên trong có chứa: 19 viên nén màu hồng đỏ; 01 túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ, bên trong chứa tinh thể màu trắng đều nghi là ma túy. L khai nhận đó là ma túy của L tàng trữ để sử dụng. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn tạm giữ của L 01 chiếc xe mô tô Hon da Wave, không đeo biển kiểm soát, số khung: RLHJA3917KY 417926; số máy: JA39E -1287642; 02 chiếc điện thoại di động (01 chiếc nhãn hiệu Vivo và 01 chiếc nhãn hiệu Vsmart) và số tiền 330.000 đồng. Cơ quan điều tra đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong số vật chứng nghi là ma túy nêu trên. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa đã tiến hành khám xét đối với nhà ở của Nguyễn Văn L, kết quả không thu giữ được gì.

Cùng ngày 04/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa đã Quyết định trưng cầu giám định Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Giang giám định số vật chứng nghi là ma túy thu giữ của L khi bắt quả tang.

Tại kết luận giám định số: 20/KL-KTHS ngày 06/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, kết luận: “Trong 01(một) phong bì có ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định: Trong 01 (một) túi ni lon màu xanh một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ có chứa: 19 (mười chín) viên nén màu hồng đỏ là ma túy, có tổng khối lượng 1,841 gam, loại Methamphetamine.

-Tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ là ma túy, có khối lượng 1,562 gam, loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra xác định hành vi phạm tội và nguồn gốc số ma túy của bị cáo như sau: Nguyễn Văn L là người thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy, theo L khai: Trước đó L quen biết người có tên là Tuyên (con rể nhà Nguyệt Tô) ở thôn Mai Thượng, xã Hương Mai, huyện Việt Yên, buổi tối ngày 02/01/2022 L gọi điện thoại cho Tuyên hỏi mua 1.300.000 đồng tiền ma túy tổng hợp dạng đá và hồng phiến thì được Tuyên đồng ý. Sau đó, L đi xe mô tô Honda Wave không đeo biển kiểm soát một mình đến nhà người có tên là Nguyệt ở thôn Mai Thượng, xã Hương Mai, huyện Việt Yên để mua ma túy về sử dụng. Khi mua L đưa tiền qua lỗ cổng thì được người ở bên trong (L không biết là ai) đưa cho một túi ni lon màu xanh, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, bên trong có chứa ma túy. L cất giấu vào túi áo khoác đang mặc rồi đi về nhà. Đến chiều cùng ngày, L bỏ túi ni lon chứa ma túy ra kiểm tra thì thấy có 20 viên ma túy tổng hợp dạng hồng phiến và 01 túi ni lon bên trong chứa ma túy đá, L bỏ 01 viên ma túy hồng phiến và một ít ma túy đá ra sử dụng, số còn lại L vẫn để ở túi ni lon và cất vào túi áo khoác đang mặc. Khoảng 10 giờ ngày 04/01/2022, Nguyễn Thị Thùy (tên gọi khác là Trang) sinh năm 1993 (ở cùng thôn với L) gọi điện thoại rủ L lên phòng trọ của Thùy ở tổ dân phố Dinh Hương, thị trấn Thắng, huyện Hiệp Hòa chơi.

L điều khiển xe mô tô Honda Wave và mang theo số ma túy đã để ở túi áo khoác trước đó. Khi đi đến cách phòng trọ của chị Thùy khoảng 100 mét do lo sợ vì cầm nhiều ma túy trong người sẽ bị Công an bắt nên L cho xe đi chậm lại rồi áp sát cột điện bên phải theo hướng đi và dùng tay phải cất giấu túi ma túy vào lỗ ô thoáng cột điện (cao ở tầm ngang vai) đồng thời L dừng xe ngay tại cột điện để chờ chị Thùy. Cùng lúc đó, Công an huyện Hiệp Hòa đến bắt quả tang và thu giữ vật chứng là số ma túy của L .

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích tính chất, hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo vẫn giữ nguyên về tội danh, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn L từ 20 đến 22 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 04/01/2022.

Về hình phạt bổ sung: Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, không có công ăn việc làm và không có tài sản tích lũy nên đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

-Tịch thu sung công 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart màu đen, bị vỡ màn hình có số IMEI 1: 359869102397630, IMEI 2: 359869102397648.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư được niêm phong có ký hiệu là “QT”; bên trong có chứa các mẫu còn lại sau giám định có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang.

* Áp dụng khoản 2 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS:

+Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn L: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo có số IMEI 1: 865731032105920, số IMEI 2: 865731032105912 và số tiền 330.000đồng nhưng được giữ lại để đảm bảo thi hành án;

*Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 136 BLTTHS và Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa,Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người làm chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án về không gian, thời gian xảy ra vụ án. Điều đó có đủ căn cứ để kết luận bản Cáo trạng số 23/CT – VKSHH ngày 24 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng người, đúng tội không oan.

[3] Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 04/01/2022, Công an huyện Hiệp Hòa đã bắt quả tang tại tổ dân phố Dinh Hương, TT Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang bị cáo Nguyễn Văn L - sinh năm 1992 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy gồm: 19 (mười chín) viên nén màu hồng đỏ là ma túy, có tổng khối lượng 1,841 gam, loại Methamphetamine và tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ là ma túy, có khối lượng 1,562 gam, loại Methamphetamine.

[4] Hành vi phạm tội của Nguyễn Văn L là nguy hiểm cho xã hội, ma túy gây hại lớn cho sức khỏe con người và xã hội, ma túy làm cho người nghiện suy kiệt về sức khỏe, sa sút về kinh tế, là nguyên nhân tan vỡ của gia đình. Hiện nay ma túy đã trở thành tệ nạn xã hội và là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các loại vi phạm, tội phạm khác như mại dâm, trộm cắp, cướp của, giết người...bản thân bị cáo là người đã trưởng thành có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ tính nguy hiểm của hành vi phạm tội nhưng vẫn cố ý phạm tội. Việc tàng trữ trái phép chất ma tuý để sử dụng có thể dẫn đến chết người, làm lây nhiễm căn bệnh thế kỷ HIV, làm suy đồi đạo đức xã hội và suy thoái giống nòi, làm tan vỡ H phúc gia đình và là nguồn gốc phát sinh của nhiều loại tội phạm khác nên cần phải được xử lý nghiêm.

[5] Xét về mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa đề nghị, HĐXX thấy là tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cho bị cáo, HĐXX cần phân tích đánh giá như sau:

- Xét Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt ;

- Xét về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bên cạnh đó, bị cáo có tham gia quân đội nên cần xem xét cho bị cáo được hưởng tỉnh tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS là có căn cứ.

Qua đánh giá nêu trên, HĐXX xét thấy cần thiết phải áp dụng Điều 38 BLHS buộc cách ly bị cáo Nguyễn Văn L ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung. Bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Hiệp Hòa nên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo cho việc thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy không có nghề nghiệp và thu nhập nên không có tài sản tích lũy. HĐXX xét thấy, không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là có căn cứ.

Cơ quan điều tra Công an huyện Hiệp Hòa đã tiến hành xác minh thì không có đủ căn cứ để xác định có người đàn ông tên là Tuyên là con rể của người đàn bà tên là Nguyệt có địa chỉ tại: thôn Mai Thượng, xã Hương Mai, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. và tại xã Hương mai có người tên Nguyệt nhưng đang sinh sống với con gái bị tâm thần và trong nhà không có người tên Tuyên và người đàn bà tên Nguyệt cũng không thừa nhận bán ma túy cho L. Vì vậy, không có căn cứ để xác định trách nhiệm hình sự đối với các đối tượng trên là có căn cứ.

[6] Về vật chứng: Cơ quan điều tra khi bắt quả tang Nguyễn Văn L có thu giữ 02 chiếc điện thoại di động và 01 chiếc xe máy cùng số tiền là 330.000đ. Tuy nhiên, chiếc xe máy là tài sản hợp pháp của chị Hoàng Thị Bích H nên đã được Cơ quan điều tra Công an huyện Hiệp Hòa đã trả lại cho chị H là có căn cứ. Đối với hai chiếc điện thoại di động thì tại phiên tòa L có khai sử dụng chiếc điện thoại Vsmart lắp sim giả để liên lạc mua ma túy vì vậy cần tịch thu sung công là có căn cứ. Đối với 01 chiếc điện thoại Vivo và số tiền 330.000đ là tài sản hợp pháp của L nên cần tuyên trả cho bị cáo nhưng được giữ lại để đảm bảo cho việc thi hành án là có căn cứ.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 200.000đ án phí HSST và tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là có căn cứ.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: Nguyễn Văn L 20 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 04/01/2022.

*Về vật chứng:

- Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu sung công 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart màu đen, bị vỡ màn hình có số IMEI 1: 359869102397630, IMEI 2: 359869102397648.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư được niêm phong có ký hiệu là “QT”; bên trong có chứa các mẫu còn lại sau giám định có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang.

* Áp dụng khoản 2 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS:

+ Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn L: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo có số IMEI 1: 865731032105920, số IMEI 2: 865731032105912 và số tiền 330.000đồng nhưng được giữ lại để đảm bảo thi hành án;

*Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 136 BLTTHS và Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Báo cho bị cáo có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST

Số hiệu:26/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;