Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 25/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, tỉnh L

BẢN ÁN 25/2022/HS-ST NGÀY 12/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 12/4/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 23/2022/HSST ngày 14 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn L1; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1994 tại Thành phố H . Trú tại; Thôn Bảo N , xã Trấn D , huyện Vĩnh B, thành phố H ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá(học vấn): 07/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Phạm Văn Th , sinh năm 1975; Con bà: Đỗ Thị L2, sinh năm 1974; Có vợ là: Hồ Thị L3, sinh năm 1986 và có 02 con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2020; Anh chị em ruột có 02 người, bị cáo là con thứ nhất; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 02/11/2021 đến ngày 08/11/2021 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố L cho đến nay. (Có mặt ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Hồi 22 giờ 30 phút, ngày 02/11/2021, Tổ công tác của cơ quan cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma tuý - Công an thành phố L đang làm nhiệm vụ tại đường dân sinh thuộc bản Tả Làn T , phường Tân Ph , thành phố L, tỉnh L thì phát hiện, bắt quả tang Phạm Văn L1 đang tàng trữ 01 gói được gói bên ngoài bằng một mảnh giấy có một mặt màu vàng, một mặt màu trắng bên trong chứa 04 viên nén màu hồng ở trong túi áo ngực bên trái đang mặc của L1. Theo L1 khai gói đó là ma túy, loại hồng phiến (hay còn gọi là ngựa) của L1 tàng trữ để sử dụng.

Cơ quan điều tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng để điều tra, làm rõ.

Tại cơ quan điều tra, Phạm Văn L1 khai nhận: Nguồn gốc gói ma túy bị thu giữ là vào khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 02/11/2021, tại cổng bến xe khách tỉnh L thuộc tổ 26, phường Đông Ph , thành phố L, tỉnh L, Phạm Văn L1 đã xin được của một người đàn ông tên là Tâm (là bạn quen biết của L1 từ trước nhưng L1 không biết cụ thể tên tuổi, địa chỉ) 01 gói ma túy có đặc điểm như trên, mục đích là để sử dụng cho bản thân. Sau khi xin được gói ma túy L1 cất vào túi áo ngực bên trái đang mặc rồi đi về phòng trọ của L1 ở bản Tả Làn T, phường Tân Ph, thành phố L, tỉnh L. Khi L1 đi đến phía trước cổng bản thì gặp anh Nguyễn Trung D , sinh năm 1985 trú tại: Tổ 24, phường Đông Ph, thành phố L, tỉnh L là bạn của L1 đang đi xe máy trên đường nên L1 đã nhờ anh D đưa L1 về phòng trọ của L1. Đến 22 giờ 30 phút, ngày 02/11/2021 khi anh D chở L1 đến đoạn đường dân sinh của bản Tả Làn Than (phía trước cửa phòng trọ của L1) thì bị tổ công tác phát hiện, bắt quả tang. Lúc này anh D mới biết L1 tàng trữ trái phép ma túy trên người của L1.

Các vấn đề khác của vụ án:

Kết luận giám định số: 41/KLGĐ ngày 03/11/2021 của người giám định tư pháp theo vụ việc kết luận: 04 viên nén màu hồng được gói bên ngoài bằng một mảnh giấy có một mặt màu vàng, một mặt màu trắng thu giữ của Phạm Văn L1 trong quá trình bắt quả tang ngày 02/11/2021 có khối lượng là 0,39 gam.

Kết luận giám định số: 834/GĐ-KTHS ngày 05/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L kết luận: Mẫu viên nén màu hồng gửi giám định là ma tuý, loại Methamphetamine (không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).

Cáo trạng số: 06/CT-VKSTP ngày 14/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L đã truy tố Phạm Văn L1 về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Văn L1 phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Văn L1 từ 14 tháng đến 20 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/11/2021. Áp dụng khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu huỷ một Ph bì công văn của Công an thành phố L, (Theo hồ sơ bên trong là 01 mảnh giấy có một mặt màu vàng và một mặt màu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong trong quá trình bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Văn L1, ngày 02/11/2021). Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về các quyết định nêu trên.

Tại lời nói sau cùng bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của bản thân và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật để được sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố L, các Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm Ph xác định trọng lượng, kết luận giám định … được xem xét và tranh tụng công khai tại phiên toà. Vì vậy có đủ cơ sở để khẳng định: Hồi 22 giờ 30 phút, ngày 02/11/2021, tại khu vực đường dân sinh thuộc bản Tả Làn T, phường Tân Ph, thành phố L, tỉnh L, Phạm Văn L1 đang tàng trữ 0,39 gam Methamphetamine ở trong túi áo ngực bên trái, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L phát hiện, bắt quả tang.

Bị cáo Phạm Văn L1 là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo Phạm Văn L1 có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, không oan sai, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có ông ngoại được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có cơ hội cai nghiện, răn đe, giáo dục bị cáo, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định và không có tài sản riêng, điều kiện kinh tế khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 0,39 gam Methamphetamine Cơ quan điều tra đã trích đi giám định, sau giám định không hoàn lại mẫu vật nên không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.

Đối với mảnh giấy có một mặt màu vàng và một mặt màu trắng, 01 vỏ Ph bì niêm phong trong quá trình bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Văn L1, ngày 02/11/2021 là công cụ phạm tội và vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra, theo lời khai của Phạm Văn L1, nguồn gốc 0,39 gam Methamphetamine mà bị cáo bị thu giữ là do một người đàn ông tên Tâm quá trình điều tra, cơ quan điều tra không xác định được nhân thân lai lịch nên cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra, làm rõ vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án.

Kết quả điều tra xác định, anh Nguyễn Trung D điều khiển xe máy chở Phạm Văn L1 về phòng trọ của L1 không biết việc L1 tàng trữ ma túy nên anh D không phạm tội.

[6] Quan điểm của kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn L1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Văn L1 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/11/2021.

3. Về vật chứng:

Tịch thu, tiêu hủy: mảnh giấy có một mặt màu vàng và một mặt màu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong trong quá trình bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Văn L1, ngày 02/11/2021.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/02/2022 giữa Công an thành phố L và Chi cục thi hành án dân sự thành phố L).

4. Về án phí: Bị cáo Phạm Văn L1 phải chịu án phí hình sự sơ thẩm số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân cấp trên

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 25/2022/HS-ST

Số hiệu:25/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;