TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 240/2021/HS-PT NGÀY 24/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24/9/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 147/2021/TLPT-HS ngày 11/8/2021 đối với bị cáo Nông Văn H, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2021/HS-ST ngày 08/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk.
- Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Nông Văn H; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1995, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn T, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Nùng; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 7/12; Cha: Nông Đức A, sinh năm 1959; Mẹ: Nông Thị N, sinh năm 1956; Vợ: Lý Thị Mỹ H1, sinh năm: 1995; bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2017. Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 03/3/2021, chuyển sang tạm giam ngày 12/3/2021. Có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra, trong vụ án còn có 02 bị cáo không có kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào lúc 10 giờ ngày 03/3/2021, tại thôn M, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, đội Cảnh sát điều tra tội phạm Kinh tế - Ma túy Công an huyện Ea H’Leo, phối hợp với Công an xã C đang làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát thì phát hiện bắt quả tang Mạc Văn H2, Vi Văn T, Nông Văn H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong tay phải của H2 03 gói giấy bạc màu trắng, chứa chất rắn màu trắng, trong túi quần phía trước, bên phải của H2 600.000 đồng; thu giữ trong túi quần phía trước, bên phải của T 01 gói giấy bạc màu trắng, chứa chất rắn màu trắng; thu giữ trong túi quần phía trước, bên phải của H 01 gói giấy bạc màu trắng và 01 gói giấy bạc màu vàng, đều chứa chất rắn màu trắng. H2, khai nhận chất rắn nói trên là ma túy, mua về để sử dụng cho bản thân và bán lại kiếm lời; T, H mua về để sử dụng cho bản thân. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Mạc Văn H2, Vi Văn T, Nông Văn H và niêm phong các gói giấy bạc theo quy định.
Quá trình điều tra xác định: Vào khoảng 17 giờ ngày 01/3/2021, Mạc Văn H2, đi bộ từ nhà rẫy của mình ở thôn M, xã C, huyện E, đến lô cao su thuộc thôn M, xã C, huyện E, gặp 01 người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 500.000 đồng tiền ma túy thì người này đưa cho H2 01 gói ma túy được gói bằng giấy bạc màu trắng. Sau đó, H2 về nhà rẫy của mình và dùng tay chia thành 03 gói ma túy được gói trong giấy bạc màu trắng, mục đích là để sử dụng cho bản thân và bán cho người khác để kiếm lời. Vào khoảng 18 giờ ngày 02/3/2021, H2 bán cho Nông Văn H 01 gói ma túy với giá 400.000 đồng, sau đó H dùng tay chia gói ma túy vừa mua được thành 02 gói. Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 03/3/2021, H2 bán cho Vi Văn T 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng. Còn lại 01 gói ma túy H2 chia thành 03 gói nhỏ nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân và bán lại để kiếm lời. Đến khoảng 10 giờ ngày 03/3/2021, khi H2, T, H đang ở nhà rẫy của H2 tại thôn M, xã C, huyện E, thì bị Công an huyện Ea H’Leo bắt quả tang.
Tại kết luận giám định số: 292/GĐMT-PC09 ngày 12/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Phong bì M1 (thu giữ của Mạc Văn H2): Chất rắn màu trắng đựng trong 03 gói giấy bạc màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,1842 gam, loại: Heroine;
Phong bì M2 (thu giữ của Vi Văn T): Chất rắn màu trắng đựng trong 01 gói giấy bạc màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2052 gam, loại: Heroine;
Phong bì M3 (thu giữ của Nông Văn H): Chất rắn màu trắng đựng trong 01 gói giấy bạc màu trắng và 01 gói giấy bạc màu vàng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,1684 gam, loại: Heroine (Bút lục số: 06).
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 40/2021/HS-ST ngày 08/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Nông Văn H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc Hội.
Tuyên xử: Bị cáo Nông Văn H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ (03/3/2021).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với bị cáo Vi Văn T, bị cáo Mạc Văn H2, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 19/07/2021, bị cáo Nông Văn H có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo, thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.
Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Các bị cáo Vi Văn T, Mạc Văn H2, Nông Văn H là người đồng bào dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật còn hạn chế nhưng Tòa án cấp sơ không áp khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho các bị cáo là có phần thiếu sót. Xét mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận gì thêm, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơvụ án, có đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 10 giờ, ngày 03/3/2021, tại thôn M, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo Nông Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1684 gam, chất ma túy loại Heroinen hằm mục đích để sử dụng cho bản thân. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, ngoài việc xâm hại đến các chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý chất ma túy còn góp phần làm gia tăng tệ nạn ma túy tại địa phương và là nguồn gốc phát sinh của nhiều loại tội phạm khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Các bị cáo Vi Văn T, Mạc Văn H2, Nông Văn H là người đồng bào dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật còn hạn chế, cấp sơ thẩm không áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho các bị cáo là có phần thiếu sót. Tuy nhiên, mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Nông Văn H không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, mà cần giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt.
[3] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nông Văn H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;
[1] Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nông Văn H;
Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2021/HS-ST ngày 08/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Nông Văn H: 01 (một) năm 6 (sáu) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 03/3/2021.
[2] Về án án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nông Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 240/2021/HS-PT
Số hiệu: | 240/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về