TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 218/2022/HS-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 191/2022/TLST- HS ngày 23 tháng 06 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 316/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2022, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T (tên gọi khác H), sinh năm 1999, tại Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; thường trú: khu phố, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 11/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1963 và bà Hoàng Thị H, sinh năm 1965; có 02 anh, chị, lớn sinh năm 1985, nhỏ sinh năm 1992; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 16/03/2022, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Người chứng kiến: Nguyễn Thanh D; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 12/3/2022, Nguyễn Văn T đến quán “Bar 85” thuộc quận G, Thành phố Hồ Chí Minh chơi và sử dụng ma túy loại MDMA cùng với người bạn tên M (chưa rõ nhân thân, lai lịch). Sau khi sử dụng ma túy xong, còn 01 viên nén hình vuông màu xám và 02 mảnh vỡ của viên nén màu xám nên M đưa cho T cất vào túi đeo chéo của mình. Đến ngày 16/3/2022, T mang theo chiếc túi có chứa ma túy đến dự sinh nhật bạn tại thành phố T, thành phố Hồ Chí Minh. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày sau khi kết thúc tiệc sinh nhật, T nhờ người bạn dự tiệc chở đến chung cư O thuộc khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương để ghé nhà bạn gái chơi. Đến chung cư, T đi bộ một mình lên, khi vừa đi đến trước căn hộ A2 - 05.02 thì bị Đội cảnh sát Kinh tế- Ma túy phối hợp Công an phường A tiến hành kiểm tra hành chính phát hiện ở ngăn nhỏ bên trong túi đeo chéo mà T đang đeo trên người có 01 viên nén hình vuông màu xám và 02 mảnh vỡ của viên nén màu xám, T khai là ma túy.
Tại bản Kết luận giám định số: 162/KL-KTHS ngày 25/03/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu 01 (một) viên nén màu xám cùng 02 (hai) mảnh vỡ viên nén màu xám, gửi giám định là ma túy, loại MDMA, có khối lượng: 0,6278gam.
Đối với người bạn tên Mai, đưa ma túy cho Nguyễn Văn Thụ cất giữ, do chưa rõ nhân thân lai lịch, tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau.
Tại cáo trạng số 214/CT–VKS ngày 20 tháng 6 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T mức án từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.
Vật chứng thu giữ, xử lý vật chứng:
Mẫu vật đã phục vụ hết cho công tác giám định.
Tại phiên tòa, bị cáo có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, nên không tranh luận và đối đáp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo và người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì.
[2] Nội dung vụ án: Khoảng 23 giờ ngày 16/3/2022, tại trước cửa căn hộ, chung cư O, thuộc khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, khối lượng 0,6278 gam, loại MDMA. Hành vi của Nguyễn Văn T đủ yếu tố cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Như vậy Cáo trạng số 214/CT–VKS ngày 20 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự và nghiện ma túy.
[7] Về xử lý vật chứng: Mẫu vật đã phục vụ hết cho công tác giám định.
[8] Mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp với tính chất mức độ và nhân thân của bị cáo, nên Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt trong mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị.
[9] Đối với người bạn tên Mai, đưa ma túy cho Nguyễn Văn T cất giữ, do chưa rõ nhân thân lai lịch, tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau.
[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/03/2022.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Vật chứng: Mẫu vật đã phục vụ hết cho công tác giám định.
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
Bị cáo vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án;
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 218/2022/HS-ST
Số hiệu: | 218/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/07/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về