TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 217/2021/HS-PT NGÀY 24/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong các ngày 27 tháng 8 và 24 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 192/2021/TLPT-HS ngày 02 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo Phan Phước L, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 23/2021/HS-ST ngày 25 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Thanh B, tỉnh Đồng Tháp.
Bị cáo có kháng cáo:
Phan Phước L, sinh năm 1989 tại tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú (HKTT): Ấp T, xã Tân T1, huyện Thanh B, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn T2, sinh năm 1953 và bà Lê Thị B1 sinh năm 1953; có vợ (đã ly hôn) và có 02 con; tiền án: Không; tiền sự:
- Ngày 30-11-2020, Phan Phước L bị Chủ tịch UBND xã Tân T, huyện Thanh B, tỉnh Đồng Tháp ra Quyết định số: 10/QĐ-UBND áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời hạn 03 tháng, do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
- Ngày 05-3-2021, Phan Phước L bị Tòa án nhân dân huyện Thanh B, tỉnh Đồng Tháp ra Quyết định số 04/2021/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở điều trị nghiện bắt buộc, thời hạn 12 tháng, chưa chấp hành xong. Đến ngày 28-4-2021, Tòa án nhân dân huyện Thanh B ra Quyết định số 01/2021/QĐ-TA cho Phan Phước L được miễn chấp hành phần thời gian còn lại trong Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở điều trị nghiện bắt buộc số 04/2021/QĐ-TA của Tòa án nhân dân huyện Thanh B.
Tạm giữ: Ngày 27-02-2021; Tạm giam: Ngày 05-3-2021.
Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp.
(Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phan Phước L là người nghiện ma túy, vào khoảng 23 giờ 30 phút, ngày 26-02-2021, bị cáo đón xe khách đi đến huyện B Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh tìm bạn tên “Đ”, nhưng không gặp. Đến khoảng 10 giờ, ngày 27-02-2021, bị cáo đến Bến xe Miền Tây đón xe về thì gặp một thanh niên tên T3 (không rõ họ và chữ lót, địa chỉ cụ thể), qua trao đổi biết đối tượng T3 có bán ma túy, nên L mua 02 bịch ma túy đá với số tiền 400.000 đồng, rồi cất giấu vào bên trong gói thuốc lá nhãn hiệu Hero để trong túi quần phía trước bên phải.
Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, khi xe chạy về gần đến cầu Tân T, thuộc xã Tân T1, huyện Thanh B, tỉnh Đồng Tháp thì bị cáo L điện thoại cho bạn là Lư Văn P (cư trú ở ấp T4, xã Tân T1) nhờ chở về trại tại vườn xoài của gia đình bị cáo (thuộc ấp T, xã Tân T1). Tại đây, bị cáo L và P gặp Trần Văn Vũ L (cư trú ấp Tân H, xã Tân Công S, huyện Tam N, tỉnh Đồng Tháp) cũng là bạn của L đến chơi, nên cả 03 người cùng ngồi nói chuyện.
Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo L lấy gói thuốc Hero có cất giấu 02 bịch ma túy bên trong và bộ dụng cụ sử dụng ma túy để sử dụng, nhưng bị cáo chưa kịp sử dụng thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế và ma túy Công an huyện Thanh B phối hợp cùng với Công an xã Tân T tiến hành kiểm tra. Khi bị kiểm tra, P và L bỏ chạy, còn bị cáo L thì ném gói thuốc lá có cất giấu 02 bịch ma túy ở bên trong qua cửa sổ nhằm phi tang. Lực lượng Công an đã phát hiện cách căn trại khoảng 02 mét, có 01 bịch nylon hàn kín 02 đầu có chứa nhiều hạt tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy, nên niêm phong trong phong bì ký hiệu A1; 01 gói thuốc lá nhãn hiệu Hero bên trong có 01 bịch nylon hàn kín hai đầu, có chứa nhiều hạt tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy, nên niêm phong trong phong bì ký hiệu A2. Bị cáo L khai nhận đó là 02 bịch ma túy đá do bị cáo L mua tại bến xe Miền Tây, Thành phố Hồ Chí Minh đem về để sử dụng, nên Cơ quan điều tra thu giữ và tiến hành trưng cầu giám định.
Tại bản Kết luận giám định số: 230/KL-KTHS ngày 01-3-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp, kết luận: Tinh thể rắn chứa trong 01 bịch nylon hàn kín 02 đầu, được niêm phong trong phong bì ghi ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng 0,128 gam, loại Methamphetamine. Tinh thể rắn chứa trong 01 bịch nylon hàn kín 02 đầu, được niêm phong trong phong bì ghi ký hiệu A2 gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng 0,158 gam, loại Methamphetamine. Tổng cộng 02 bịch nylon có khối lượng ma túy là 0,286 gam, loại Methamphetamine (số thứ tự 323 thuộc Danh mục II, Nghị định số 73 ngày 15-5-2018 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất).
* Về vật chứng thu giữ:
- 01 (một) phong bì có chứa khối lượng 0,094 gam mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong ký hiệu A1, ghi niêm phong số 224/A1, ngày 28- 02-2021, có chữ ký ghi họ tên Trần Thị Ý N, Nguyễn Văn Bé N1, Trần Anh Kt, Phan Phước L và đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp.
- 01 (một) phong bì chứa khối lượng 0,125 gam mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong ký hiệu A2, ghi niêm phong số 224/A2, ngày 28-02- 2021, có chữ ký ghi họ tên Trần Thị Ý N, Nguyễn Văn Bé N, Trần Anh K, Phan Phước L và đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp.
- 01 (một) vỏ gói thuốc lá nhãn hiệu Hero được niêm phong trong phong bì ký hiệu A3, có chữ ký ghi họ tên Trần Anh K, Phan Văn T, Phan Phước L và đóng dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh B.
- Thu giữ của bị cáo Phan Phước L: 01 (một) B tự chế dùng để sử dụng ma túy; 03 (ba) cây kéo bằng kim loại màu trắng; 05 (năm) ống hút nhựa; 02 (hai) ống hút nhựa được hàn kín một đầu, một đầu nhọn; 06 (sáu) ống hút bằng thủy tinh; 01 (một) bình ga mini; 01 (một) đầu khò; 02 (hai) hột quẹt khò.
01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu xám, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu xanh, đã qua sử dụng; Tiền VNĐ: 1.300.000đ (Một triệu ba trăm nghìn đồng) do không liên quan đến hành vi phạm tội, nên Cơ quan điều tra đã trao trả cho bị cáo L xong.
- Thu giữ của Lư Văn P: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, đã qua sử dụng, là tài sản cá nhân không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra trao trả cho Lư Văn P xong.
Tại Bản án số 23/2021/HS-ST ngày 25-5-2021 của Tòa án nhân dân huyện Thanh B, tỉnh Đồng Tháp đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Phan Phước L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.
Xử phạt bị cáo Phan Phước L 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo bị tạm giữ 27- 02- 2021.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và nêu quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 31 tháng 5 năm 2021, bị cáo Phan Phước L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phan Phước L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo khai rằng khoảng 23 giờ 30 phút ngày 26-02-2021, bị cáo đón xe đi đến huyện B Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh tìm bạn không gặp. Đến khoảng 10 giờ ngày 27-02-2021, bị cáo đến Bến xe Miền Tây để đón xe về thì gặp đối tượng tên “T” có bán ma túy, nên bị cáo mua 02 bịch ma túy đá với số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) rồi cất giấu vào bên trong gói thuốc lá nhãn hiệu Hero để trong túi quần phía trước bên phải. Khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo về đến cầu Tân T, huyện Thanh B, bị cáo điện thoại cho Lư Văn P nhờ chở về căn trại tại vườn xoài thuộc ấp Trung, xã Tân T. Tại đây, bị cáo và P gặp Trần Văn Vũ L đến chơi, nên cả 03 người cùng ngồi nói chuyện. Đến khoảng 16 giờ 30 phút ngày 27-02-2021, bị cáo L lấy 02 bịch ma túy và bộ dụng cụ sử dụng ma túy để sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an huyện Thanh B và Công an xã Tân T đến kiểm tra và bắt quả tang bị cáo đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Bị cáo khẳng định việc Bản án sơ thẩm kết án bị cáo tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, không oan sai. Tuy nhiên, bị cáo cho rằng mức án 02 năm tù mà Tòa án sơ thẩm kết án bị cáo là nặng, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo có cha mẹ già và con còn nhỏ cần có người chăm sóc. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp tại phiên tòa phúc thẩm phát biểu quan điểm nhận định hành vi của bị cáo Phan Phước L bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật. Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo L là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo có nêu tình tiết thành khẩn khai báo để xin giảm nhẹ nhưng xét thấy tình tiết này Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét; còn việc bị cáo nêu lý do chăm sóc cha mẹ già, con nhỏ để xin giảm nhẹ hình phạt là không có cơ sở chấp nhận. Vì vậy, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt.
Trong phần tranh luận, bị cáo Phan Phước L không tranh luận. Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Bị cáo Phan Phước L là người nghiện ma túy, nhiều lần được cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp giáo dục, cai nghiện bắt buộc nhưng vẫn tiếp tục nghiện và vi phạm pháp luật. Ngày 27-02-2021, Phan Phước L có hành vi tàng trữ 0,286 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm sử dụng thì bị bắt quả tang.
[2] Hành vi của bị cáo Phan Phước L là vi phạm pháp luật hình sự. Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2021/HS-ST ngày 25-5-2021 của Tòa án nhân dân huyện Thanh B tuyên bố bị cáo L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan, sai.
[3] Xét thấy khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm có xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo và có cân nhắc tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, từ đó phán quyết mức án 02 (hai) năm tù đối với bị cáo là phù hợp.
[4] Nay bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do bị cáo đã thành khẩn khai báo về vụ án, bị cáo phải chăm sóc cha mẹ già, con nhỏ. Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo có nhân thân không tốt, nhiều lần vi phạm pháp luật, ý thức cải tạo kém. Trong vụ án này, tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo” của bị cáo đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét nên Tòa án cấp phúc thẩm không thể tiếp tục áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo lần nữa. Ngoài ra, bị cáo lấy lý do chăm sóc cha mẹ già, con nhỏ để xin giảm nhẹ hình phạt là không có cơ sở chấp nhận vì xét thấy rằng bị cáo là người nghiện ma túy, nhiều lần vi phạm pháp luật, chưa làm tròn nghĩa vụ của người con đối với cha mẹ và chưa làm tròn trách nhiệm của người cha đối với con của mình. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần này.
[5] Xét thấy phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm là có căn cứ chấp nhận.
[6] Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[7] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Phước L.
Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2021/HS-ST ngày 25 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Thanh B, tỉnh Đồng Tháp về phần hình phạt đối với bị cáo Phan Phước L.
Tuyên bố bị cáo Phan Phước L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Phan Phước L 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo (ngày 27- 02- 2021).
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-02-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Phan Phước L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 217/2021/HS-PT
Số hiệu: | 217/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về