Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC MÊ, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 21/2022/HS-ST NGÀY 28/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 21/2022/TLST-HS ngày 13/7/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2022 đối với:

- Bị cáo: Lý Văn Đ; tên gọi khác: Không; sinh năm 1974; nơi sinh: huyện B, tỉnh Hà Giang; nơi cư trú: Thôn B, xã Y, huyện B, tỉnh Hà Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 2/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lý Đức H, sinh năm 1937 (đã chết) và con bà: Mã Thị Th, sinh năm 1938; có 06 anh, chị em, bị cáo là con thứ sáu trong gia đình; có vợ: Nông Thị N, sinh năm 1972 và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1992, con nhỏ nhất sinh năm 1997; tiền án: Không; tiền sự: 01 tiền sự. Ngày 20 tháng 9 năm 2021 bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vận chuyển, cất giữ gỗ rừng trồng có nguồn gốc hợp pháp nhưng không chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật về hồ sơ lâm sản hợp pháp; nhân thân: Không; bị tạm giữ từ ngày 11 tháng 6 năm 2022, chuyển tạm giam từ ngày 20 tháng 6 năm 2022, hiện đang tiếp tục áp dụng biện pháp tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 16 giờ 15 phút ngày 11/6/2022, tổ công tác Công an huyện Bắc Mê nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc tại Thôn B, xã Y, huyện B, tỉnh Hà Giang có một số đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Qua rà soát phát hiện đối tượng Lý Văn Đ có biểu hiện nghi vấn liên quan đến hoạt động tội phạm ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra phát hiện Lý Văn Đ cất giấu tại nhà 08 gói nilon màu trắng, bên trong có chất nhựa màu đen, nghi là ma túy (nhựa thuốc phiện) và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lý Văn Đ, thu giữ toàn bộ tang vật để điều tra, làm rõ.

Quá trình điều tra bị cáo khai nhận vào khoảng tháng 4/2022 (không nhớ ngày cụ thể) Đ bắt xe khách từ nhà đi sang thị trấn P, huyện B, tỉnh Cao Bằng. Tại đây, Đ gặp 01 người Đ ông dân tộc Mông lạ mặt bịt khẩu trang (không rõ nhân thân, lai lịch). Người này hỏi Đ “Có mua thuốc không?”, Đ hỏi “Thuốc gì?” thì người đó nói là “Mua mới nói”, Đ đồng ý mua thì người đó nói là bán thuốc phiện. Đ đồng ý mua 1.000.000 đồng thì được người đó bán cho 01 gói ma túy (nhựa thuốc phiện). Sau đó, Đ đem về nhà chia nhỏ để sử dụng dần và đã sử dùng được 02 lần bằng hình thức pha với nước uống. Còn lại 08 gói ma túy (nhựa thuốc phiện) chưa sử dụng đến thì bị phát hiện, bắt quả tang thu giữ toàn bộ để điều tra theo quy định của pháp luật.

Ngày 11/6/2022 Cơ quan CSĐT Công an huyện Bắc Mê đã ra lệnh khám xét khẩn cấp nhà ở của Lý Văn Đ. Kết quả không phát hiện và thu giữ thêm đồ vật, tài liệu gì liên quan đến hành vi phạm tội. Đồng thời, tiến hành xét nghiệm nước tiểu cho kết quả Lý Văn Đ dương tính với chất ma túy.

Ngày 12/6/2022 Cơ quan CSĐT Công an huyện Bắc Mê ra quyết định trưng cầu giám định 08 gói chất nhựa màu đen, nghi là ma túy (nhựa thuốc phiện) được niêm phong vào 01 phong bì màu trắng, ghi ký hiệu là A1 gửi Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hà Giang.

Tại Kết luận giám định số 208 ngày 15/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang, kết luận: 08 mẫu chất nhựa màu đen gửi giám định ký hiệu từ A1.1 đến A1.8 đều là ma túy, loại nhựa thuốc phiện, có tổng khối lượng là 5,684g (Năm phẩy sáu trăm tám mươi tư gam). Thuốc phiện nằm trong Danh mục I, mục ID, STT 47, Nghị định 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ, được sửa đổi bổ sung bằng Nghị định số 60/2020/NĐ-CP, ngày 29/5/2020 của Chính phủ.

Ngày 20/6/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bắc Mê khởi tố vụ án, khởi tố bị can, chuyển tạm giam đối với Lý Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 BLHS.

Quá trình điều tra Cơ quan CSĐT Công an huyện Bắc Mê đã tạm giữ: 08 gói nilon màu trắng, bên trong có chất nhựa màu đen, nghi là ma túy, được niêm phong vào 01 phong bì màu trắng, ký hiệu A1.

Sau khi lấy mẫu giám định, số tang vật còn lại gồm:

- 01 phong bì màu trắng, được niêm phong, có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh, bên trong có chất ma túy thu giữ trong quá trình bắt quả tang, mặt trước phong bì ghi “mẫu vật hoàn trả sau giám định ký hiệu từ A1.1 đến A1.8”.

- 01 phong bì màu trắng được niêm phong, có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh, bên trong có vỏ bao gói và các phong bì niêm phong cũ, mặt trước phong bì ghi “vỏ bao gói và phong bì niêm phong cũ”.

Tại phiên tòa, bị cáo Lý Văn Đ thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu.

Tại bản Cáo trạng số 22/CT-VKSBM ngày 13/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang đã truy tố Lý Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lý Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Lý Văn Đ từ 01 năm 02 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/6/2022. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì bị cáo không có thu nhập ổn định.

+ Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì màu trắng, được niêm phong, có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh, bên trong có chất ma túy thu giữ trong quá trình bắt quả tang, mặt trước phong bì ghi “mẫu vật hoàn trả sau giám định ký hiệu từ A1.1 đến A1.8; 01 phong bì màu trắng được niêm phong, có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh, bên trong có vỏ bao gói và các phong bì niêm phong cũ, mặt trước phong bì ghi “vỏ bao gói và phong bì niêm phong cũ”.

+ Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, khoản 6 Điều 15; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phần tranh luận, bị cáo nhất trí với tội danh, Điều luật và mức hình phạt mà Kiểm sát viên đã đề nghị trong bản luận tội.

Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên,Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ định tội, định khung hình phạt: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo, biên bản niêm phong đồ vật, tài tiệu tạm giữ, biên bản xét nghiệm chất ma túy, bản ảnh cân tịnh vật chứng, bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Giang cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ Hội đồng xét xử đã đủ cơ sở xác định: Ngày 11/6/2022, Lý Văn Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại nhựa thuốc phiện có khối lượng là 5,684g (Năm phảy, sáu trăm tám mươi tư gam) trong nhà ở tại thôn Bản Đuốc, xã Y, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang. Như vậy, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang truy tố Lý Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chế độ quản lý, sử dụng các chất ma túy của Nhà nước và trật tự an toàn xã hội. Ma túy là chất gây nghiện làm hủy hoại sức khỏe và suy thoái đạo đức của con người, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác do đó Nhà nước nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển ma túy trái quy định pháp luật dưới mọi hình thức. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng do nhu cầu sử dụng cá nhân, Lý Văn Đ đã cố ý tàng trữ trái phép ma túy dưới dạng thuốc phiện với khối lượng 5,684g. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự và cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm minh tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm mà hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong vụ án này bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tuy nhiên bị cáo có 01 tiền sự vào ngày 20/9/2021 về hành vi vận chuyển, cất giữ gỗ rừng trồng có nguồn gốc hợp pháp nhưng không chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật về hồ sơ lâm sản hợp pháp nhưng chưa được xóa tiền sự. Quá trình sinh sống tại địa phương bị cáo có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy, thường xuyên tiếp xúc với người nghiện trong và ngoài địa bàn và đi khỏi nơi cư trú nên Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt tù đại diện Viện kiểm sát huyện Bắc Mê đã đề nghị tại phiên tòa đối với bị cáo là phù hợp, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục đối với bị cáo nói riêng và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, trong vụ án này quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu, là người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng đặc biệt khó khăn và thuộc hộ cận nghèo của địa phương, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, do đó khi áp dụng mức hình phạt Hội đồng xét xử cũng xem xét để bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Bị cáo Lý Văn Đ đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bắc Mê, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án theo quy định tại Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6] Trong vụ án này còn có hành vi và đối tượng khác liên quan:

[6.1] Đối với bị cáo Lý Văn Đ ngoài hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy đã bị khởi tố còn có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy Cơ quan điều tra đã xử lý hành chính là đúng quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử không xem xét.

[6.2] Đối với người Đ ông bán ma túy cho bị cáo Lý Văn Đ số tiền 1.000.000 đ nhưng không biết họ tên địa chỉ, qua điều tra không đủ cơ sở xác định nhân thân lai lịch nên không có căn cứ để xử lý, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, bị cáo cất giữ ma tuý trong người với mục đích để sử dụng cho bản thân, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy, vỏ bao gói và phong bì niêm phong cũ được hoàn trả sau giám định cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự là phù hợp.

[9] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, thuộc hộ cận nghèo và có đơn đề nghị miễn nộp án phí nên được miễn toàn bộ tiền án phí theo quy định của pháp luật.

[10] Từ những căn cứ nêu trên, xét thấy đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về hình phạt, xử lý vật chứng, miễn nộp án phí và miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lý Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt Lý Văn Đ 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 11 tháng 6 năm 2022. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì màu trắng, được niêm phong, có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh, bên trong có chất ma túy thu giữ trong quá trình bắt quả tang, mặt trước phong bì ghi “mẫu vật hoàn trả sau giám định ký hiệu từ A1.1 đến A1.8; 01 phong bì màu trắng được niêm phong, có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh, bên trong có vỏ bao gói và các phong bì niêm phong cũ, mặt trước phong bì ghi “vỏ bao gói và phong bì niêm phong cũ”.

(Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/7/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Mê và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Mê).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Lý Văn Đ được miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2022/HS-ST

Số hiệu:21/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Mê - Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;