Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRC, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 20/2022/HS-ST NGÀY 11/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TrC, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 10/2022/TLST-HS, ngày 28 tháng 3 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2022/QĐXXST-HS, ngày 31 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

- Thạch D, sinh năm 1992, tại huyện DH, tỉnh Trà Vinh; nơi cư trú ấp BM, xã ĐCh, huyện DH, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Khmer; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thạch N, sinh năm 1966 và bà Hứa Thị H, sinh năm 1961; bị cáo sống chung như vợ chồng với bà Đỗ Thúy Q, sinh năm 1996, có 01 người con sinh ngày 06/02/2022; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 15/6/2021 bị Tòa án nhân dân huyện DH, tỉnh Trà Vinh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 18 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; bị bắt quả tang và tạm giữ vào ngày 18/01/2022, đến ngày 20/01/2022 bị khởi tố và áp dụng biện pháp tạm giam cho đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Tấn L, Luật sư thực hiện Trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Trà Vinh, có mặt.

- Người làm chứng Ông Kim T, sinh năm 1987. Địa chỉ kh4, thị trấn TrC, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh, vắng mặt.

- Người phiên dịch tiếng Khmer: Ông Thạch D, sinh năm 1957. Nơi cư trú kh5, thị trấn TrC, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Cáo trạng số 17/CT-VKS-HS, ngày 27 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TrC, tỉnh Trà Vinh truy tố bị cáo Thạch D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Hành vi bị cáo bị truy tố như sau:

Ngày 18/01/2022 thực hiện theo kế hoạch đã được đề ra, Công an huyện TrC tiến hành kiểm tra việc chấp hành pháp luật về việc đăng ký lưu, tạm trú của một số nhà nghỉ trên địa bàn thị trấn Trà Cú, huyện TrC. Đến khoảng 14 giờ 10 phút 18/01/2022, khi lực lượng Công an đến kiểm tra Nhà nghỉ HT, địa chỉ kh4, thị trấn TrC, huyện TrC thì phát hiện bị cáo D đang ngồi trên xe mô tô biển số: 52S5-3985, trong sân phía trước nhà nghĩ HT, bị cáo D chuẩn bị xuống xe vào thuê phòng.

Khi nhìn thấy lực lượng Công an, bị cáo D có một số biểu hiện nghi vấn. Nên lực lượng Công an tiến đến chỗ bị cáo D để nhằm kiểm tra thì phát hiện bị cáo D để một đoạn ống nhựa màu trắng, được hàn kín ở hai đầu, bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá, dưới lòng bàn chân phải, trên đôi dép phải đang mang. Khi nhìn thấy lực lượng Công an lại gần để kiểm tra, bị cáo D cho đoạn ống nhựa rơi xuống nền sân nhà nghỉ Hoàng Tuấn. Hành vi trên của bị cáo D bị lực lượng Công an phát hiện, bị cáo D thừa nhận chất tinh thể màu trắng được để trong đoạn ống nhựa là ma túy đá, bị cáo D mang ma túy vào thuê nhà nghỉ Hoàng Tuấn để nhằm mục đích sử dụng cùng với bạn đã hẹn trước. Công an huyện TrC tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo D, đồng thời tạm giữ, niêm phong đối với tang vật trên để gửi cơ quan có thẩm quyền giám định.

Căn cứ vào Bản kết luận giám định số: 44/KLGĐ ngày 20/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh kết luận: Tinh thể được chứa trong 01 (một) đoạn ống nhựa, được niêm phong ký hiệu A gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1816 gam.

Về nguồn gốc chất ma túy, trước Cơ quan điều tra bị cáo D khai nhận: Số ma túy mà bị cáo D tàng trữ, mang vào Nhà nghỉ Hoàng Tuấn để chuẩn bị cùng bạn sử dụng là của một người bạn tên Thái, khoảng 30 tuổi, không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể cho vào ngày 16/01/2022, khi bị cáo D sử dụng ma túy chung với Thái trên địa bàn huyện TrC. Ngày 24/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TrC đã ra Quyết định tạm giữ của bị cáo D tinh thể sau giám định có khối lượng 0,1752 gam được để trong phong bì niêm phong số: 44/M, ngày 20/01/2022 và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu vàng- đen, đã qua sử dụng, đang sử dụng sim số 0774.891317.

Tại phiên tòa, bị cáo Thạch D trình bày: Khi bị kiểm tra trên người bị cáo thì Công an có thu giữ một đoạn ống nhựa màu trắng, được hàn kín ở hai đầu, bên trong có chứa tinh thể là ma túy đá, dưới lòng bàn chân phải, trên đôi dép phải đang mang, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu vàng - đen, đã qua sử dụng đang sử dụng sim số: 0774.891317; chất ma túy của bị cáo mua và cất giấu để nhằm mục đích sử dụng, bị cáo không khiếu nại gì cáo trạng của Viện kiểm sát.

- Người bào chữa cho bị cáo Thạch D phát biểu: Thống nhất cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Thạch D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thừa nhận hành vi sai trái của mình, bị cáo là người dân tộc thiểu số (Khmer) và trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, bị cáo phạm tội lần đầu, vợ bị cáo mới sinh con không đủ khả năng nuôi con rất cần có sự chăm lo của bị cáo. Bị cáo cũng chỉ là nạn nhân của tội phạm mua bán trái phép chất ma túy. Vì vậy, đề nghị giảm nhẹ hình phạt ở mức thấp nhất cho bị cáo là 01 năm tù.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Thạch D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo D từ 01 năm đến 02 năm tù. Về vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ chất ma túy thu giữ được (sau khi lấy mẫu giám định) tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động thu giữ của bị cáo. Về án phí đề nghị buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Thạch D nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo sớm về với xã hội, gia đình phụ vợ nuôi con còn nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 18/01/2022, khi bắt quả tang bị cáo Thạch D, Cơ quan điều tra Công an huyện TrC đã thu giữ trên người của D một đoạn ống nhựa màu trắng, được hàn kín ở hai đầu, bên trong có chứa tinh thể nghi là ma túy đá giấu dưới lòng bàn chân phải trên đôi dép phải bị cáo đang mang và 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG, đang sử dụng sim số: 0774.891317. Xét thấy việc thu thập vật chứng được Cơ quan điều tra thực hiện niêm phong đúng quy định tại Điều 90, 105 Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ vào Bản kết luận giám định số: 44/KLGĐ ngày 20/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh kết luận: Tinh thể được chứa trong 01 (một) đoạn ống nhựa, được niêm phong ký hiệu A gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1816 gam. Tại phiên tòa, bị cáo Thạch D không có ý kiến gì về hàm lượng chất ma túy đã giám định.

[2] Bị cáo Thạch D có lời khai thống nhất với nhau là chất tinh thể trong đoạn ống nhựa nêu trên là chất ma túy của một người bạn tên Thái, khoảng 30 tuổi, không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể cho bị cáo vào ngày 16/01/2022. Quá trình kiểm tra chất ma túy trong cơ thể bị cáo D ngày 18/01/2022 thì kết quả xét nghiệm là bị cáo D dương tính với chất ma túy. Xét lời khai nhận tội của bị cáo D tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo D trong giai đoạn điều tra, truy tố, phù hợp với vật chứng thu giữ trực tiếp tại hiện trường vụ án và phù hợp lời khai của người làm chứng là ông Kim T nên Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận cáo trạng số 17/CT- VKS-HS, ngày 27 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TrC, tỉnh Trà Vinh truy tố bị cáo Thạch D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật.

[3] Tội phạm mà bị cáo Thạch D thực hiện là nghiêm trọng, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bị cáo Thạch D là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo là người có nhân thân xấu, ngày 15/6/2021 bị Tòa án nhân dân huyện Dên Hải ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 18 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng bị cáo vẫn không từ bỏ hành vi sử dụng trái phép chất ma túy mà trốn khỏi nơi cư trú để tiếp tục tàng trữ ma túy để sử dụng, điều này cho thấy bị cáo Thạch D có ý thức xem thường sự nghiêm minh của pháp luật. Do đó, người bào chữa cho bị cáo Thạch D đề nghị xử phạt bị cáo Thạch D mức án 01 năm tù là ở mức khởi điểm của khung hình phạt là không nghiêm, không đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này đang gia tăng tại địa bàn huyện TrC.

[4] Việc bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để trực tiếp sử dụng trái phép chất ma túy đã góp phần tạo ra một lớp người nghiện trong xã hội, đe dọa đến an toàn, trật tự công cộng, gây ảnh hưởng sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của chính bản thân của bị cáo cũng như ảnh hưởng đến trật tự, trị an xã hội tại địa phương, vụ án không có đồng phạm. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tù nghiêm khắc có thời hạn như đại diện Viện kiểm sát đề nghị, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm để cho bị cáo cai nghiện bắt buộc và nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng xem xét quá trình điều tra, truy tố thì bị cáo Thạch D thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế, hoàn cảnh gia đình bị cáo có vợ mới sinh con. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Thạch D không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về vật chứng: Chất ma túy thu giữ được (sau khi đã lấy ra một phần để giám định) là chất cấm sử dụng. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu để tiêu hủy. Đối với điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu vàng - đen, đã qua sử dụng là phương tiện bị cáo sử dụng liên lạc người khác để sử dụng ma túy nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[7] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì bị cáo Thạch D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Hội đồng xét xử đã thẩm tra các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố và thấy rằng các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; được thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố: Bị cáo Thạch D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Thạch D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/01/2022.

Việc xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu hủy: Tinh thể sau giám định có khối lượng 0,1752 gam được để trong phong bì niêm phong số: 44/M, ngày 20/01/2022, với hình dấu tròn màu đỏ có nội dung Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh, các chữ ký ghi tên Nguyễn Văn Mạnh, Kim Hoàng Thái.

Tch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu vàng - đen, đã qua sử dụng đang sử dụng sim số: 0774.891317.

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số: 17/QĐ-VKS-HS ngày 27/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TrC, tỉnh Trà Vinh).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Thạch D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Thạch D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2022/HS-ST

Số hiệu:20/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trà Cú - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;