Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 18/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM THAO, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 18/2022/HS-ST NGÀY 28/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 21/2022/TLST- HS ngày 09 tháng 03 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Nhâm Quang T; sinh năm 1977 tại huyện L, tỉnh P; nơi cư trú: Khu 5, xã C, thành phố V, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Nhâm Văn C, sinh năm 1948; con bà Tạ Thị T, sinh năm 1952 (đã chết); vợ, con: Không có; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Bản án số 20/ST ngày 15/6/2001, Toà án nhân dân huyện Lâm Thao xử T 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999. Trị giá tài sản trộm cắp là 500.000 đồng.

+ Bản án số 38/ST ngày 27/11/2003, Toà án nhân dân huyện Lâm Thao xử T 36 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”, quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999 và 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999. Tổng hợp hình phạt buộc T phải chấp hành 66 tháng tù. Ngoài ra bản án còn tuyên về phần trách nhiệm dân sự T phải bồi thường bằng tiền cho người bị hại, án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự phải chịu. T đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/8/2008, đã nộp án phí hình sự, dân sự vào tháng 5/2005, đối với phần trách nhiệm dân sự các bị hại không có đơn đề nghị thi hành án, đến nay đã hết thời hiệu thi hành án, CQCSĐT CA huyện Lâm Thao đã xác minh, các bị hại không yêu cầu T phải bồi thường khoản tiền này.

+ Tại Quyết định số 11152/QĐ-UBND ngày 23/9/2010 của Chủ tịch UBND thành phố V quyết định đưa T đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục - Lao động xã hội tỉnh Phú Thọ, thời hạn 24 tháng. T chấp hành xong ngày 28/7/2012.

+ Bản án số 153/2013/HSST ngày 16/9/2013, Toà án nhân dân thành phố Việt Trì xử T 33 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS, buộc nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. T đã nộp án phí ngày 01/12/2013 và chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/01/2016.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/12/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 30 phút ngày 31/12/2021, tổ công tác Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lâm Thao làm nhiệm vụ phát hiện, nghi vấn đối tượng có biểu hiện vi phạm pháp luật về ma túy, tiến hành kiểm tra đối với Nhâm Quang T, sinh năm 1977, ở khu 5, xã C, thành phố V, tỉnh Phú Thọ khi T đang đi bộ tại đoạn đường thuộc khu 9, xã T, huyện L. Khi bị kiểm tra, T tự nguyện giao nộp cho tổ công tác 01 gói giấy mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng, bên trong có chứa chất bột, cục màu trắng đục. T khai là ma tuý Heroine, T mua về để sử dụng. Tổ công tác Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lâm Thao đã lập biên bản sự việc, niêm phong, tạm giữ gói giấy trên. Ngoài ra, phát hiện, tạm giữ của Nhâm Quang T 01 ống xi lanh nhựa, loại 3ml/cc đựng trong 01 túi nilon dán kín và 01 lọ thủy tinh, bên trong chứa 01 ml dung dịch tiêm “DIMEDROL”. Kết quả xét nghiệm chất ma túy ngày 31/12/2021 đối với Nhâm Quang T, thể hiện: T dương tính với chất ma túy Heroine.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lâm Thao đã ra Quyết định trưng cầu giám định đối với chất bột, cục màu trắng đục có trong 01 gói giấy mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng, tạm giữ của Nhâm Quang T. Tại bản Kết luận giám định số 73 ngày 04/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận: Chất bột, cục màu trắng đục chứa trong gói giấy gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,114 gam.

* Heroine là chất ma túy nằm trong Danh mục I, số thứ tự 09, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.”. Sau giám định, hoàn trả lại cho CQCSĐT Công an huyện Lâm Thao 0,084 gam chất bột, cục màu trắng đục cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định.

Tại Cơ quan điều tra, T khai nhận do bản thân nghiện ma túy Heroine, T thường xuyên tìm mua chất ma túy của những người không biết tên, tuổi, địa chỉ để sử dụng (sử dụng tại đâu T không nhớ, không xác định được). Khoảng gần 10 giờ ngày 31/12/2021, T một mình đi bộ đến nhà Nguyễn Văn L, sinh năm 1962, trú tại khu 9, xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ. T gặp L ở nhà một mình, T đưa 200.000 đồng và bảo Lượng mua giúp T ma túy Heroine. L đồng ý, cầm tiền và bảo T ngồi chờ. Sau đó, L một mình đi mua ma túy ở đâu T không biết. Khoảng 30 phút sau, L quay lại, đưa cho T 01 gói giấy, mặt ngoài màu vàng. T biết đây là ma tuý heroine nên không mở kiểm tra mà cầm ở tay phải rồi đi bộ tìm nơi sử dụng. Chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác của Cơ quan Cơ quan cảnh sát Công an huyện Lâm Thao kiểm tra, phát hiện như nêu trên.

Trên cơ sở lời khai của T, ngày 31/12/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lâm Thao đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn L tại khu 9, xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ; quá trình khám xét không thu giữ gì.

Về tài sản: Qua xác minh của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lâm Thao, bị can T không có tài sản riêng gì có giá trị.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của T vào thời điểm trước ngày 31/12/2021, do T không xác định được người đã bán chất ma túy cho mình, không xác định được vị trí sử dụng chất ma túy, do vậy CQCSĐT CA huyện Lâm Thao không có căn cứ xác minh, xử lý.

Đối với Nguyễn Văn L, Cơ quan cảnh sát Điều tra công an huyện Lâm Thao đã triệu tập làm việc với Nguyễn Văn L, đối chất giữa L và T, L khai ngày 31/12/2021, T đến nhà L nhờ mua hộ ma tuý heroine, nhưng L không bán cũng không mua ma túy hộ T. Kết quả xét nghiệm chất ma túy cùng ngày, L âm tính với chất ma túy. Ngoài lời khai của T thì không có căn cứ nào chứng minh L mua ma tuý hộ T. Do đó, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý đối với L.

Cáo trạng số: 13/CT -VKSLT ngày 08 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Nhâm Quang T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Thao giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nhâm Quang T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nhâm Quang T từ 24 (Hai mươi tư) tháng tù đến 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/12/2021.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ: 01 bì giấy niêm phong số 73/KLGĐ của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Phú Thọ, mặt ngoài ghi “Hoàn lại 0,084 gam chất bột cục màu trắng đục cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định trong vụ vật chứng thu giữ của Nhâm Quang T, sinh năm 1977, ở khu 5, xã C, thành phố V, tỉnh Phú Thọ” là vật chứng Nhà nước cấm lưu hành; 01 ống xi lanh nhựa, loại 3ml/cc đựng trong 01 túi nilon dán kín; 01 lọ thủy tinh, bên trong chứa 01 ml dung dịch tiêm “DIMEDROL”, đều chưa qua sử dụng.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nhâm Quang T hoàn toàn khai nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lâm Thao, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Thao, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau: Ngày 31/12/2021, Nhâm Quang T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,114 gam ma túy Heroine để sử dụng cho bản thân, bị Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Lâm Thao kiểm tra, phát hiện vào hồi 10 giờ 30 phút cùng ngày tại khu 9, xã Thạch Sơn, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Hành vi của Nhâm Quang T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về chất ma túy. Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp; biên bản khám xét; kết luận giám định và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Bị cáo Nhâm Quang T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Nội dung Điều 249 Bộ luật hình sự quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR – 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...” [3] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ là chế độ quản lý đặc biệt đối với chất ma túy của Nhà nước gây mất trật tự trị an trên địa bàn và gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Khi thực hiện hành vi bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải đưa bị cáo ra xét xử và có hình phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như sau:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu nhưng không lấy đó là bài học rút kinh nghiệm cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý song bị cáo không có tiền án, tiền sự nên không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bố bị cáo là thương bình nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, để giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian.

[4] Về hình phạt bổ sung: Qua xác minh của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Lâm Thao xác định bị cáo không có tài sản riêng gì có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng vụ án:

Đối với 01 bì giấy niêm phong số 73/KLGĐ của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Phú Thọ, mặt ngoài ghi “Hoàn lại 0,084 gam chất bột cục màu trắng đục cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định trong vụ vật chứng thu giữ của Nhâm Quang T, sinh năm 1977, ở khu 5, xã C, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ” là vật chứng Nhà nước cấm lưu hành; 01 ống xi lanh nhựa, loại 3ml/cc đựng trong 01 túi nilon dán kín;

01 lọ thủy tinh, bên trong chứa 01 ml dung dịch tiêm “DIMEDROL”, đều chưa qua sử dụng là công cụ bị cáo mua với mục đích sử dụng ma túy, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

Đối với Nguyễn Văn L, là người Nhâm Quang T khai bán ma túy cho mình, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Lâm Thao đã tiến hành đối chất giữa L và T, L khai ngày 31/12/2021, T đến nhà Lượng nhờ mua hộ ma tuý heroine, nhưng L không bán cũng không mua ma túy hộ T. Kết quả xét nghiệm chất ma túy cùng ngày, L âm tính với chất ma túy. Ngoài lời khai của T thì không có căn cứ nào chứng minh L mua ma tuý hộ T. Do đó, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý đối với L là phù hợp.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Nhâm Quang T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. [2] Xử phạt bị cáo Nhâm Quang T 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/12/2021.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nhâm Quang T.

[3] Về xử lý vật chứng vụ án:

Tịch thu tiêu huỷ: 01 bì giấy niêm phong số 73/KLGĐ của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Phú Thọ, mặt ngoài ghi “Hoàn lại 0,084 gam chất bột cục màu trắng đục cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định trong vụ vật chứng thu giữ của Nhâm Quang T, sinh năm 1977, ở khu 5, xã C, thành phố V, tỉnh Phú Thọ” là vật chứng Nhà nước cấm lưu hành; 01 ống xi lanh nhựa, loại 3ml/cc đựng trong 01 túi nilon dán kín;

01 lọ thủy tinh, bên trong chứa 01 ml dung dịch tiêm “DIMEDROL”, đều chưa qua sử dụng.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/3/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lâm Thao và Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Thao).

[4] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nhâm Quang T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

[5] Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 18/2022/HS-ST

Số hiệu:18/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Thao - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;