Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 18/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 18/2022/HS-ST NGÀY 18/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/2022/TLST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Họ tên: Nguyễn Văn D - sinh năm 1996 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Đội 8, xóm Đ, xã L, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N và bà Ngô Thị B; có vợ Khiếu Thị N và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25-10-2021, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 03-11- 2021 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Họ tên: Đinh Đức D1 - sinh năm 1996 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Đội 12, xóm C, xã C, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn M và bà Ngô Thị M1; có vợ Trần Thị Thanh T1 và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị 1 cáo bị tạm giữ từ ngày 25-10-2021, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 03-11-2021 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Ông Trần Trung D2, ông Trần Văn H (không triệu tập tới phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 45 phút ngày 25-10-2021 tổ công tác Công an phường Hạ Long, thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực ngã ba đường Trần Thái Tông – đường Bái, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định phát hiện Nguyễn Văn D điều khiển xe máy biển kiểm soát: 18D1-373.74 chở Đinh Đức D1 có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, tổ công tác thu giữ trong tay trái của D1 02 gói nhỏ được gói bằng túi nilong màu đen, bên trong là lớp giấy bạc màu trắng, mở kiểm tra bên trong đều chứa chất bột dạng cục màu trắng (D và D1 đều khai là ma túy vừa mua để cùng sử dụng). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng rồi đưa D, D1 cùng người làm chứng về trụ sở lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của D 01 xe máy biển kiểm soát: 18D1-373.74 và 01 chiếc điện thoại Iphone màu đen; tạm giữ của D1 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen (đều đã cũ).

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ. Tại bản kết luận giám định số 1387/GĐKTHS ngày 29-10-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng trong 02 gói giấy bạc màu trắng, bên ngoài bọc nilong màu đen trong phong bì được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại chất ma túy là: Heroine, có khối lượng 0,171 gam (không phẩy một bảy một gam).

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn Văn D và Đinh Đức D1 khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để cùng sử dụng, đồng thời khai nhận về nguồn gốc số ma túy như sau: Khoảng 11 giờ 40 phút ngày 25-10-2021, Nguyễn Văn D gọi điện thoại cho Đinh Đức D1 rủ đi mua ma túy để cùng sử dụng, D1 đồng ý. Sau đó, D đi xe máy biển kiểm soát: 18D1-373.74 đến khu vực ngã tư Mậu, xã Yên Cường, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định thì gặp D1. D nói mỗi người góp 100.000 đồng để mua ma túy và đưa cho D1 100.000 đồng. D1 đồng ý và cầm 100.000 đồng D đưa. Sau đó, D chở D1 đến khu vực ngõ 75 đường Trần Thái Tông, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định. D1 xuống xe và đi bộ đến một nhà trong ngõ (không nhớ rõ số nhà) mua qua khe cửa (không rõ người bán) 02 gói ma túy với giá 200.000 đồng. D1 nhận 02 gói ma túy và cầm trong tay trái rồi đi ra gặp D. D1 nói với D đã mua được ma túy rồi lên xe máy để D1 chở đi tìm nơi sử dụng. Khi cả hai đi đến khu vực ngã ba đường Trần Thái Tông – đường Bái, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định thì bị phát hiện bắt giữ.

Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát: 18D1-373.74, Nguyễn Văn D khai mượn của bố đẻ là ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1971; nơi cư trú: Đội 8, xóm Đ, xã L, huyện Y, tỉnh Nam Định. Do ông Nguyễn Văn N không biết việc Nguyễn Văn D mượn xe để đi mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam định đã trả chiếc xe trên cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Nguyễn Văn N.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Nguyễn Văn D và Đinh Đức D1, hiện tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên cơ quan điều tra đã tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.

Bản cáo trạng số 21/CT-VKSTPNĐ ngày 21-01-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố các bị cáo Nguyễn Văn D và Đinh Đức D1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo Nguyễn Văn D và Đinh Đức D1 tại phiên tòa thể hiện hành vi của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn D và Đinh Đức D1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Đinh Đức D1 từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù, không áp dụng hình bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Xử lý vật chứng đã thu giữ theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo Nguyễn Văn D và Đinh Đức D1 nói lời sau cùng: Xin Hội đồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Văn D và Đinh Đức D1 không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Lời khai nhận tội của các bị cáo Nguyễn Văn D và Đinh Đức D1 phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 12 giờ 45 phút ngày 25-10-2021, Nguyễn Văn D và Đinh Đức D1 đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,171 gam Heroine mục đích để cùng sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang tại khu vực ngã ba đường Trần Thái Tông – đường Bái, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện; khối lượng Heroine các bị cáo tàng trữ mục đích để sử dụng là 0,171 gam nên các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về vai trò của các bị cáo: Các bị cáo là người quen biết, cùng nhau phạm tội trong một lần duy nhất, trước khi phạm tội không có sự phân công nên là đồng phạm giản đơn, không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức. Bị cáo Nguyễn Văn D là người khởi xướng, bị cáo Đinh Đức D1 là người trực tiếp đi mua ma túy bằng tiền góp chung của cả hai bị cáo nên vai trò của hai bị cáo trong vụ án là ngang nhau.

[4] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về các tình tiết giảm nhẹ: Sau khi thực hiện tội phạm, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Riêng đối với bị cáo Nguyễn Văn D, gia đình bị cáo có công với cách mạng, có đơn đề nghị xin giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo được chính quyền địa phương xác nhận nên bị cáo được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Các bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về cá thể hóa hình phạt đối với các bị cáo:

Các bị cáo đều phạm tội lần đầu, đều được áp dụng tình tiết giảm nhẹ nên Hội đồng xét xử sẽ xử phạt các bị cáo ở mức thấp của khung hình phạt mà các bị cáo bị truy tố nhằm giáo dục, cải tạo các bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo Nguyễn Văn D và Đinh Đức D1 tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng; các bị cáo có hoàn cảnh khó khăn và không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng trong vụ án như sau:

Số ma túy đã thu giữ là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

01 chiếc điện thoại di động Iphone màu đen thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn D và 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đen thu giữ của bị cáo Đinh Đức D1 là tài sản của các bị cáo, xét không kiên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên trả lại cho các bị cáo, song tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

[8] Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Văn D và Đinh Đức D1 bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn D và Đinh Đức D1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

khoản 1 Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 01 năm tù (một năm tù). Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 25-10-2021.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đinh Đức D1 01 năm 03 tháng tù (một năm ba tháng tù).

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 25-10-2021.

2. Xử lý vật chứng:

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn D 01 chiếc điện thoại di động Iphone màu đen, song tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Đinh Đức D1 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đen, song tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

(Vật chứng có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21-01- 2022).

3. Án phí:

- Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.

Bị cáo Nguyễn Văn D phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Đinh Đức D1 phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Các bị cáo Nguyễn Văn D và Đinh Đức D1 được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 18/2022/HS-ST

Số hiệu:18/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;