Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 177/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 177/2022/HS-ST NGÀY 22/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 9 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La và điểm cầu thành phần nhà tạm giữ Công an huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử trực tuyến sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 172/2022/TLST-HS ngày 31/8/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 180/2022/QĐXXST- HS ngày 12/9/2022 đối với bị cáo:

Lò Văn T, sinh năm 1974 tại huyện M, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản K, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): không biết chữ; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông Lò V và bà Hoàng Thị P (Đều đã chết); bị cáo có vợ là Hà Thị T và 01 con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 28/6/2018 TAND huyện Mộc Châu xử phạt Lò Văn T 21 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. (Đã được xóa án tích) Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/6/2022 đến nay. Tham gia phiên tòa tại điểm cầu thành phần “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17h ngày 23/6/2022 tổ công tác Đồn biên phòng cửa khẩu L phối hợp các lực lượng chức năng làm nhiệm vụ tại bản K, xã C, huyện M tiến hành kiểm tra đối với Lò Văn T. Qua kiểm tra phát hiện T đang cất giấu trong túi áo 01 gói nilon màu đen bên trong chứa chất cục bột màu trắng nghi là Heroine. Lò Văn T khai nhận đó là ma tuý cất giấu để sử dụng cho bản thân. Căn cứ hành vi vi phạm của Lò Văn T, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng và dẫn giải Lò Văn T về trụ sở Đồn biên phòng cửa khẩu L để điều tra, làm rõ.

Ngày 24/6/2022 Đồn biên phòng cửa khẩu Lóng Sập tiến hành xác định tổng khối lượng chất cục bột màu trắng thu giữ của Lò Văn T được 0,62 gam, lấy toàn bộ làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu T.

Tại Kết luận giám định số 1115 ngày 25/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,62 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,62 gam; loại Heroine.” Quá trình điều tra, Lò Văn T khai nhận: Bản thân nghiện chất ma túy. Khoảng 8h ngày 23/6/2022 T đi bộ một mình từ nhà đến bản P, xã L tìm mua ma túy mang về sử dụng. Đến nơi, T gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết, qua trao đổi T đã hỏi và mua được của người đàn ông đó 01 gói nilon màu đen bên trong đựng Heroine với giá 200.000 đồng, T cầm số ma túy vừa mua được rồi đi về, về nhà T lấy một ít Heroine ra sử dụng, số Heroin còn lại T gói lại như cũ rồi cất giấu trong túi áo. Đến khoảng 17 giờ T đi bộ lên lán nương thì gặp tổ công tác Đồn biên phòng cửa khẩu L phối hợp các cơ quan chức năng kiểm tra, phát hiện, bắt giữ.

Tại bản Cáo trạng số 138/CT- VKS ngày 31 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Lò Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị áp dụng các căn cứ pháp luật xử lý đối với bị cáo như sau:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt Lò Văn T từ 24 tháng đến 27 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

- Về vật chứng của vụ án: Đề nghị áp dụng khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì có ghi dòng chữ: Vật chứng lưu kho vụ: Lò Văn T, bắt ngày 23/6/2022 (mảnh nilon màu đen và phong bì niêm phong ban đầu) và 01 (một) phong bì có ghi dòng chữ: test thử ma túy của Lò Văn T, ngày 23/6/2022, kq: Dương tính.

- Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn T.

Sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát và có lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[ ] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[ ] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan Điều tra, số ma túy bị tổ công tác thu giữ có nguồn gốc của bị cáo mua được của một người đàn ông không quen biết với giá 200.000đ vào ngày 23/6/2022, mục đích để sử dụng. Lời khai của bị cáo không có nội dung gì thay đổi so với lời khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra, bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định; kết luận giám định;

lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Lò Văn T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy nhưng do nghiện ma túy nên ngày 23/6/2022 bị cáo Lò Văn T đã có hành vi tàng trữ 0,62 gam Heroine nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi trên của bị cáo đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo Lò Văn T không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện chất ma túy và có 01 tiền án đã được xóa án tích theo bản án 143/2018/HSST ngày 28/6/2018 của TAND huyện Mộc Châu xử phạt Lò Văn T 21 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện mà tiếp tục phạm tội.

Từ những đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, sống chung với gia đình nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[ ] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với: 01 (một) phong bì có ghi dòng chữ: Vật chứng lưu kho vụ: Lò Văn T, bắt ngày 23/6/2022 (mảnh nilon màu đen và phong bì niêm phong ban đầu) và 01 (một) phong bì có ghi dòng chữ: test thử ma túy của Lò Văn T, ngày 23/6/2022, kq: Dương tính. Xét thấy, đây là những vật không có giá trị sử dụng.

Căn cứ khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[ ] Về các vấn đề khác: Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Lò Văn T quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ. Do đó, không có căn cứ để điều tra, làm rõ và xử lý.

[ ] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Tại phiên tòa bị cáo xin được miễn án phí.

Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[7] Về thời hạn tạm giam: Xét thấy thời hạn tạm giam của bị cáo còn lại dưới 45 ngày, do đó, Hội đồng xét xử quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lò Văn T 25 (Hai mươi lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày 23/6/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì có ghi dòng chữ: Vật chứng lưu kho vụ: Lò Văn T, bắt ngày 23/6/2022 (mảnh nilon màu đen và phong bì niêm phong ban đầu) và 01 (một) phong bì có ghi dòng chữ: test thử ma túy của Lò Văn T, ngày 23/6/2022, kq: Dương tính theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 162/BBVC-CCTHA ngày 05/9/2022 giữa Công an huyện Mộc Châu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mộc Châu.

3. Về án phí: Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn T.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

120
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 177/2022/HS-ST

Số hiệu:177/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;