Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 175/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ G - TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 175/2021/HS-ST NGÀY 28/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 142/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 162/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Khưu Thị Mai T, sinh ngày 18/3/1983. Tại T, tỉnh Kiên Giang; Nơi đăng ký thường trú: Tổ 04 ấp N, xã B, huyện T, tỉnh Kiên Giang; Chỗ ở hiện nay: Số nhà 211/6 đường H, khu phố 4, phường L, thành phố G, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Nội trợ; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Khưu Văn H1 và bà Trương Thị Kim P; Anh chị em ruột có 02 người, lớn sinh năm 1981, nhỏ sinh năm 1986. Chồng: Danh L1i; Con: Có 02 người, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2020.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 24/01/2011, bị Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xử phạt 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 21/01/2017 chấp hành xong hình phạt, đã xóa án tích.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam: Không.

Bị cáo đang tại ngoại.

1 Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người chứng kiến:

+ Lê Văn Đ, sinh năm 1979 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 14, khu phố 2, phường L, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

+ Danh T1, sinh năm 1978 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 3, khu phố 3, phường L, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Bản thân Khưu Thị Mai T là người nghiện ma túy (loại ma túy đá). Thông qua mối quan hệ quen biết ngoài xã hội T biết được người tên T2 (chưa xác định được nhân thân, địa chỉ) có bán ma túy. Vào ngày 15/4/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo T dùng điện thoại di động điện cho tên Tý hỏi mua 01 bịch ma túy đá giá 1.500.000 đồng, T2 đồng ý và hẹn địa điểm giao ma túy là tại nhà của bị cáo T, số 211/6 đường H, khu phố 4, phường L, thành phố G, tỉnh Kiên Giang. Sau khi có ma túy, bị cáo T lấy ra 01 ít sử dụng, số còn lại thì cất giấu trong phòng ngủ nhà của T. Đến 11 giờ 50 phút ngày 16/4/2021, Cơ quan Công an kiểm tra, bắt quả tang có hành vi tàng trữ ma túy và thu giữ 01 số vật chứng khác. Tại Cơ quan điều tra bị cáo T khai nhận mục đích tàng trữ ma túy là để sử dụng, không có mục đích nào khác. Đến ngày 29/4/2021, bị cáo T bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố G khởi tố và cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị cáo Khưu Thị Mai T đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Khưu Thị Mai T đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

* Vật chứng của vụ án: 03 (Ba) bịch ma túy; 02 (Hai) bình nhựa phía trên nắp có gắn ống thủy tinh (nỏ) dùng để sử dụng ma túy; 02 (Hai) cân tiểu ly, 02 (Hai) cây kéo bằng kim loại, 01 (Một) túi nhựa.

Điện thoại di động nhãn hiệu Nokia bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy, Bị cáo đã làm mất không giao nộp được.

* Tại bản kết luận giám định số 415/KL-KTHS ngày 26 tháng 4 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang xác định (bút lục số 34):

- Gói 1: Các hạt rắn màu trắng, không đồng nhất chứa trong 02 (Hai) bịch nylon trong suốt hàn kín, được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,3039 gam.

- Gói 2: Các hạt rắn màu trắng, không đồng nhất chứa trong 01 (Một) bịch nylon trong suốt hàn kín, được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,2758 gam.

(Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II STT 323 Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang nêu trên.

* Theo bản cáo trạng số: 157/CT.VKSRG ngày 03/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo Khưu Thị Mai T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra Công an thành phố G và bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Khưu Thị Mai T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Khưu Thị Mai T mức án từ 01 (Một) năm 06 tháng đến 02 (Hai) năm tù.

- Về vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên: Tịch thu, tiêu hủy 02 (Hai) phong bì có ký hiệu vụ số 415/gói 1 và 415/gói 2, có chữ ký của giám định viên Lê Đức Huy và người chứng kiến niêm phong Lê Văn Toàn và dấu hình tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang; 02 (Hai) bình nhựa phía trên nắp có gắn ống thủy tinh (nỏ) dùng để sử dụng ma túy đá; 02 (Hai) cân tiểu ly, 02 (Hai) cây kéo bằng kim loại, 01 (Một) túi nhựa (Theo quyết định chuyển vật chứng số 121/QĐ-VKS ngày 03/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang) Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hội đồng xét xử xét thấy, tại phiên toà hôm nay bị cáo Khưu Thị Mai T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu; lời nhận tội trên phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, của những người tham gia tố tụng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào ngày 15/4/2021 do có nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo T dùng điện thoại di động điện cho tên T2 hỏi mua 01 bịch ma túy đá giá 1.500.000 đồng, T2 đồng ý và hẹn địa điểm giao ma túy là tại nhà của bị cáo T tại số nhà 211/6 đường H, khu phố 4, phường L, thành phố G, tỉnh Kiên Giang. Sau khi có ma túy, bị cáo T lấy ra 01 ít sử dụng, số còn lại thì cất giấu trong phòng ngủ nhà của T. Đến 11 giờ 50 phút ngày 16/4/2021, Cơ quan Công an kiểm tra, bắt quả tang cùng vật chứng (Qua giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine có tổng khối lượng là 0,5797 gam). Mục đích bị cáo mua ma túy là để sử dụng, không có bán lại hoặc sử dụng vào mục đích khác.

Từ những chứng cứ đã nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Khưu Thị Mai T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như kết luận của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét về tính chất mức độ phạm tội của bị cáo xảy ra rất nguy hiểm cho xã hội, bị cáo thực hiện tội phạm có ý thức và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do xuất phát từ việc nghiện ma túy và muốn có ma túy sử dụng mà bị cáo đã bất chấp lao vào con đường phạm tội, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về trật tự quản lý các chất ma túy, làm ảnh hưởng đến sự ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương và là điều kiện để làm phát sinh tội phạm khác. Qua xem xét, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu vào ngày 24/01/2011 bị Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xử phạt 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 21/01/2017 chấp hành xong hình phạt, đã xóa án tích nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội nên Hội đồng xét xử thống nhất xử phạt bị cáo mức án tương xứng bằng hình phạt tù có thời hạn, giam giữ bị cáo trong thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt, sống có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 02 (Hai) phong bì có ký hiệu vụ số 415/gói 1 và 415/gói 2, có chữ ký của giám định viên Lê Đức H1 và người chứng kiến niêm phong Lê Văn T và dấu hình tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang; 02 (Hai) bình nhựa phía trên nắp có gắn ống thủy tinh (nỏ) dùng để sử dụng ma túy đá; 02 (Hai) cân tiểu ly, 02 (Hai) cây kéo bằng kim loại, 01 (Một) túi nhựa.

[7] Xét đề nghị của Viện kiểm sát đề nghị tại bản luận tội đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Đối với người tên Tý bán ma túy cho bị cáo, hiện chưa xác định được tên thật, địa chỉ nên đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố G, tỉnh Kiên Giang tiếp tục điều tra, làm rõ khi nào đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Khưu Thị Mai T, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Khưu Thị Mai T mức án 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính kể từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tuyên: Tịch thu, tiêu hủy 02 (Hai) phong bì có ký hiệu vụ số 415/gói 1 và 415/gói 2, có chữ ký của giám định viên Lê Đức Huy và người chứng kiến niêm phong Lê Văn Toàn và dấu hình tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang; 02 (Hai) bình nhựa phía trên nắp có gắn ống thủy tinh (nỏ) dùng để sử dụng ma túy đá; 02 (Hai) cân tiểu ly, 02 (Hai) cây kéo bằng kim loại, 01 (Một) túi nhựa (Theo quyết định chuyển vật chứng số 121/QĐ-VKS ngày 03/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang).

Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 28/12/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 175/2021/HS-ST

Số hiệu:175/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;