Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 163/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 163/2022/HS-ST NGÀY 13/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 7 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 170/2022/TLST-HS ngày 16 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 163/2022/QĐXXST- HS ngày 30 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:

Cao Văn T, tên gọi khác: không. Sinh ngày 05/6/1978. ĐKHKTT Tổ dân phố B, phường LS, thành phố SC, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Cao Văn C; Con bà Trần Thị D, đều đã chết; Vợ là Nguyễn Thị B; Có 01 con; Tiền sự: Không.

- Tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 542/2019/HSST ngày 18/10/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/7/2020.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/4/2022 đến nay). Có mặt tại phiên tòa

* Người chứng kiến: Anh Nguyễn Bá L, sinh năm 1994. Vắng mặt.

Trú tại: Tổ 03, phường G, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 30 phút ngày 09/4/2022, tại khu vực tổ 6, phường G, thành phố TN, tổ công tác của Công an phường Gia Sàng phát hiện 01 người nam giới đang đi bộ có biểu hiện liên quan đến ma túy, tổ công tác yêu cầu kiểm tra thì người nam giới khai họ tên là Cao Văn T. Quá trình kiểm tra T tự giác lấy trong lòng bàn tay phải giao nộp cho tổ công tác 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng và khai nhận số chất bột màu trắng là ma túy Heroine. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày , Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thanh phô Thai Nguyên , tỉnh Thái Nguyên tiến hành cân kiểm tra lấy mẫu gửi giám định số chât bột màu trắng co trong goi giây m àu trắng thu giữ của T có khôi lượng 0,170 gam và lấy toàn bộ cho vào bì niêm phong ký hiệu H2 gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 586/KL-KTHS ngày 17/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu H2 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng thu giữ ban đầu là 0,170 gam.

Tại Cơ quan điều tra Cao Văn T khai: Khoảng 09 giờ ngày 09/4/2022, T đi bộ từ công trường xây dựng khu đô thị Kosy thuộc phường G, thành phố TN đến khu vực cầu Loàng thuộc phường G, thành phố TN, mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Đến nơi T gặp và mua 01 gói ma túy Heroine của một người nam giới không quen biết với giá 200.000 đồng, sau khi mua được ma túy T cầm trong lòng bàn tay phải rồi đi tìm nơi sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác của Công an phường G, thành phố TN phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Vật chứng của vụ án: 01 bì niêm phong kí hiệu H2 bên trong chứa ma túy;

01 bì niêm phong ký hiệu H3 bên trong có vỏ bao thu giữ ban đầu. Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 178/CT-VKSNDTPTN, ngày 16/6/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Cao Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Cao Văn T khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu, thừa nhận việc truy tố là đúng người, đúng tội, không oan, sai.

- Sau khi kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm nhân dân thành phố Thái Nguyên trình bày bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Cao Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”:

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo Cao Văn T từ 24 đến 30 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy: 02 bì niêm phong ký hiệu H2, H3.

+ Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Trong phần tranh luận bị cáo không tranh luận. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin HĐXX cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra việc giải quyết.

[2]. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 09 giờ 30 phút ngày 09/4/2022, tại khu vực tổ 6, phường G, thành phố TN, Cao Văn T đang có hành vi tàng trữ 0,170 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường G, thành phố TN phát hiện, bắt quả tang thu giữ vật chứng.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Cao Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ. Nội dung điều luật như sau: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

... c) Heroine,…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy. Bị cáo đủ nhận thức để nhận biết được tác hại của ma túy gây ra cho bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn cố ý phạm tội.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy chưa có tiền sự nhưng có 01 tiền án từng bị xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích nhưng vẫn không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục phạm tội, vì vậy cần có một mức án nghiêm khắc để răn đe, giáo dục bị cáo thành người lương thiện. Tuy nhiên, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1Điều 51 BLHS. Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy không có tài sản gì nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[4]. Vật chứng vụ án: Đối với 02 bì niêm phong ký hiệu H2, H3 bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói mẫu cần tịch thu tiêu hủy.

[5]. Về các vấn đề khác: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Về nguồn gốc số ma túy, Cao Văn T khai mua của người nam giới khoogn quen biết ở khu vực khu vực cầu Loàng thuộc phường G, thành phố TN, quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có căn cứ điều tra làm rõ xử lý.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Cao Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt Cao Văn T 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/4/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Căn cứ Điều 329 BLTTHS tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 bì niêm phong ký hiệu H2, H3.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 230 ngày 17/6/2022 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).

3. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí Tòa án: buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 163/2022/HS-ST

Số hiệu:163/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;