Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 15/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ CỪ, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 15/2022/HS-ST NGÀY 20/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2022/TLST-HS ngµy 29/3/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2022, đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu Đ, sinh năm 1999; nơi sinh và đăng ký HKTT: Thôn H, xã T, huyện T1, tỉnh Hưng Yên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu K và bà Phạm Thị T2; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 22/5/2021 bị Ủy ban nhân dân xã Trung Dũng, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, thời hạn 03 tháng, chấp hành xong ngày 24/8/2021; tạm giữ ngày 22/01/2022; tạm giam ngày 25/01/2022; bị cáo hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên “có mặt”.

- Người chứng kiến: Ông Phạm Đức T3, sinh năm 1954; trú tại: Thôn C, thị trấn T4, huyện P, tỉnh Hưng Yên “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 22/01/2022, tổ công tác Công an huyện Phù Cừ phối hợp cùng Công an thị trấn Trần Cao tuần tra trên đường ĐT 386 thuộc địa phận thôn Cao Xá, thị trấn Trần Cao, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên phát hiện 01 nam thanh niên đi bộ có biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, nam thanh niên tự khai nhận họ, tên là Nguyễn Hữu Đ, sinh năm 1999, trú tại thôn H, xã T, huyện T1, tỉnh Hưng Yên. Quá trình kiểm tra Đ tự nguyện giao nộp cho tổ công tác 01 túi nilon, kích thước (1,5 x 1,5)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng đang cầm trong lòng bàn tay phải. Nguyễn Hữu Đ tự khai nhận chất tinh thể màu trắng trong túi nilon nêu trên là ma túy dạng đá của Đ mang theo để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác Công an huyện Phù Cừ tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng là 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng trong phong bì thư dán kín ghi ký hiệu M1. Ngoài ra, tổ công tác còn quản lý của Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus màu hồng đã qua sử dụng được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu “D”.

Cùng ngày, Cơ quan điều tra Công an huyện Phù Cừ tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Hữu Đ tại thôn H, xã T, huyện T1, tỉnh Hưng Yên; kết quả khám xét không phát hiện thu giữ đồ vật, tài liệu gì có liên quan vụ án.

Tại bản Kết luận giám định số: 108/MT-PC09 ngày 25/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên kết luận: Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng trong niêm phong ghi ký hiệu M1 (thu giữ của Nguyễn Hữu Đ) có khối lượng là 0,406 gam là ma túy, loại Methamphetamine. Hoàn lại 0,269 gam mẫu giám định trong niêm phong ghi ký hiệu M1.

Kết quả điều tra Nguyễn Hữu Đ khai nhận: Do bản thân lên cơn thèm thuốc, nên khoảng 13 giờ 30 phút ngày 22/01/2022 Đ một mình đi bộ từ nhà ở thôn H, xã T, huyện T1, tỉnh Hưng Yên ra đường để đi nhờ xe máy của người đi đường sang huyện Phù Cừ tìm mua ma túy đá về sử dụng. Đ đứng ở lề đường đợi một lúc thì đi nhờ được xe máy của người đàn ông đi đường Đ không quen biết để đến địa phận huyện Phù Cừ nhưng Đ không biết chỗ đó là địa phận của thôn, xã nào. Tại đây, Đ gặp một nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch, địa chỉ cụ thể của người này) và hỏi anh ta có ma túy đá không? Người đàn ông nói có ma túy đá và đồng ý bán cho Đ 200.000 đồng tiền ma túy đá. Người đàn ông nhận tiền của Đ và đưa cho Đ 01 túi nilon bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, Đ kiểm tra và nhận đó đúng là ma túy đá. Sau khi bán ma túy cho Đ xong, người đàn ông đó đi đâu Đ không rõ, còn Đ cầm gói ma túy vừa mua được trong lòng bàn tay phải đi bộ tìm chỗ vắng để sử dụng. Khi Đ đi đến khu vực ngã tư Phố Cao, thuộc thôn Cao Xá, thị trấn Trần Cao, huyện Phù Cừ thì bị lực lượng Công an kiểm tra, quá trình kiểm tra Đ tự nguyện giao nộp cho Công an từ trong lòng bàn tay phải của mình 01 túi nilon chứa ma túy đá vừa mua được và khai nhận toàn bộ hành vi sai phạm.

Đối với người cho Đ đi nhờ xe máy và người đàn ông bán ma túy cho Đ vào chiều ngày 22/01/2022, do Đ không quan sát được đặc điểm và không rõ nhân thân, lai lịch của các người này, nên cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh, làm rõ.

Tại Cáo trạng số: 15/CT-VKSPC ngày 28/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên truy tố Nguyễn Hữu Đ về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố hành vi phạm tội của bị cáo Đ theo nội dung cáo trạng; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu Đ từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù; không phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo Đ; tịch thu mẫu vật là ma túy do cơ quan giám định hoàn lại cho tiêu hủy; trả lại bị cáo Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus màu hồng đã qua sử dụng. Bị cáo Đ phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Hữu Đ nhận tội, khai báo thành khẩn diễn biến hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với hành vi phạm tội của Đ bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ truy tố theo nội dung cáo trạng. Tại phiên tòa, bị cáo Đ đã nhận thức rõ sai phạm của bản thân, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét phạt bị cáo mức án thấp nhất để có điều kiện cải tạo tốt, sớm trở về đoàn tụ với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Phù Cừ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng, đầy đủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và tài liệu chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

[2]. Lời khai nhận tội của Nguyễn Hữu Đ tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trước cơ quan điều tra, đồng thời phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Hữu Đ là 01 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, Đ khai nhận chất trong túi nilon nêu trên là ma túy đá mang theo với mục đích để sử dụng; phù hợp kết luận giám định mẫu chất dạng tinh thể màu trắng trong niêm phong ghi ký hiệu M1 (thu giữ của Nguyễn Hữu Đ) có khối lượng 0,406 gam là ma túy, loại Mathamphetamine và phù hợp lời khai của ông Phạm Đức T3 là người chứng kiến khi Nguyễn Hữu Đ bị bắt quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng; cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 22/01/2022 tại đoạn đường ĐT 386 thuộc địa phận thôn Cao Xá, thị trấn Trần Cao, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên; bị cáo Nguyễn Hữu Đ đang có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,406 gam chất ma túy loại Mathamphetamine mục đích để sử dụng cá nhân thì bị Công an huyện Phù Cừ phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng. Bị cáo Nguyễn Hữu Đ là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo Đ thực hiện như phân tích đã có đủ dấu hiệu cấu thành Tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên truy tố Nguyễn Hữu Đ về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là chính xác, có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.

[3]. Xét hành vi phạm tội của Nguyễn Hưu Đ là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với chất ma túy và các chất gây nghiện. Bản thân bị cáo Đ là người nghiện chất ma túy, biết rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe, trí lực của con người, gây thiệt hại về kinh tế và là 1 trong các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm khác. Bị cáo sử dụng ma túy để thỏa mãn ham muốn cá nhân dẫn đến phạm tội, đồng thời còn gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Vì vậy, cần xét xử nghiêm minh, áp dụng cho bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo gây ra và cần cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian cần thiết để cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và làm bài học răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Đ không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ: Nguyễn Hữu Đ phạm tội bị bắt quả tang, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đều nhận tội, thành khẩn khai báo,có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huy chương chiến sỹ vẻ vang, bản thân bị cáo có thời gian phục vụ trong quân đội, cha mẹ bị cáo có đơn trình bày hoàn cảnh khó khăn, xin giảm nhẹ hình phạt cho Đ được chính quyền địa phương xác nhân, nên bị cáo Đ có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Nguyễn Hữu Đ là người nghiện ma túy, chưa có gia đình riêng, không có tài sản và thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[7]. Biện pháp tư pháp:

- Mẫu vật do cơ quan giám định hoàn lại trong niêm phong là chất ma túy Nhà nước cấm, nên tịch thu cho tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s PIus, màu hồng đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo Đ, kết quả điều tra không có căn cứ chứng minh liên quan đến tội phạm nên giao trả lại cho bị cáo.

[8]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hữu Đ là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu Đ phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu Đ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày tạm giữ là ngày 22/01/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo Đ.

Biện pháp tư pháp:

- Tịch thu toàn bộ số ma túy do cơ quan giám định hoàn lại mẫu vật giám định trong phong bì thư ghi số: 108/MT-PC09 được niêm phong, cho tiêu hủy.

- Trả lại bị cáo Nguyễn Hữu Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus màu hồng đã qua sử dụng (niêm phong trong bì thư ký hiệu “P”).

(Chi tiết về số lượng, chất lượng, đặc điểm, tình trạng vật chứng được mô tả cụ thể theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/3/2022 giữa Công an huyện Phù Cừ và Chi cục án dân sự huyện Phù Cừ).

Án phí: Bị cáo Nguyễn Hữu Đ phải chịu 200.000đ, (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bản án sơ thẩm xét xử công khai có mặt bị cáo, đã báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 15/2022/HS-ST

Số hiệu:15/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Cừ - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;