Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 150/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 150/2022/HS-ST NGÀY 03/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 130/2022/HSST ngày 29 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 153/2022/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: L; Tên gọi khác: Không; Sinh 20 tháng 02 năm 1998, tại: tỉnh Đắk Lắk; Nơi đăng ký HKTT: Tổ dân phố Z, phường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Nghề nghiệp: Không có; Trình độ học vấn: 10/12; Con ông P (đã chết), và con bà S, sinh năm 1970, hiện trú tại: Tổ dân phố Z, phường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/01/2022 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Bà S – Sinh năm 1970 (có mặt).

Địa chỉ: Tổ dân phố Z, phường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

- Người chứng kiến:

1. Ông H – Sinh năm 1956 (vắng mặt).

Địa chỉ: Tổ dân phố X, phường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Ông N – Sinh năm 1982 (vắng mặt).

Địa chỉ: Tổ dân phố X, phường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

L là đối tượng nghiện chất ma túy, loại ma túy đá (Methamphetamine) và Heroin. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 17/01/2022, L điều khiển chiếc xe mô tô nhãn hiệu Halim màu xanh đen, biển số: B đi từ nhà đến khu vực Lâm viên thuộc Tổ dân phố X, phường N, thành phố B, tìm mua ma túy về để sử dụng. Khi đến nơi, L gặp một người phụ nữ khoảng 40 tuổi (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) nên đã đến hỏi mua 01 gói ma túy đá, thì được người phụ nữ này đồng ý bán với giá 300.000 đồng. Lúc này, L đưa cho người này 250.000 đồng và xin nợ lại 50.000 đồng thì người phụ nữ này đồng ý bán. Sau khi mua được gói ma túy thì L cất giấu trong túi áo khoác bên phải đang mặc rồi điều khiển xe đi về. Khi đi ngang qua khu vực đường hẻm H đường C, Tổ dân phố X, phường N, thành phố B, thì L bị Công an phường N phối hợp cùng tổ công tác Phòng PK02-Công an tỉnh Đắk Lắk kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy và niêm phong 01 gói ma túy đá tạm giữ của L theo quy định. Sau đó chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, xử lý theo thẩm quyền.

Tại Kết luận giám định số: 140/GĐMT-PC09 ngày 25/01/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Các hạt tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nhựa màu trắng được niêm phong gửi giám định là Ma túy, có khối lượng 0,1590 gam, loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số: 146/CT-VKS-HS ngày 28 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo L mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù.

Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Đối với 0,1200 gam chất ma tuý, loại Methamphetamine còn lại sau giám định và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu đựng trong 01 (một) phong bì số: 140/GĐMT-PC09 ngày 25/01/2022 của phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk, là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HALIM, số loại 100, màu xanh đen, biển số: B, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là bà S. Ngày 15/4/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc xe mô tô biển số B cho bà S nhận quản lý, sử dụng.

Bị cáo L không bào chữa và tham gia tranh luận gì. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người chứng kiến không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo L tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy đã có đủ căn cứ pháp lý để kết luận: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 17/01/2022, tại khu vực đường hẻm H đường C, Tổ dân phố X, phường N, thành phố B, Công an phường N phối hợp cùng tổ công tác Phòng PK02-Công an tỉnh Đắk Lắk phát hiện bắt quả tang L có hành vi cất giấu trái phép 0,1590 gam chất ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Hành vi của bị cáo L đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a,……;

b,……;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

...” Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, đúng người đúng tội.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, bị cáo L là công dân có đủ khả năng để nhận thức và điều khiển hành vi của bản thân trong cuộc sống, bị cáo phải biết được rằng ma túy là chất gây nghiện thuộc sự quản lý độc quyền của nhà nước. Tuy nhiên, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến quy định nhà nước về độc quyền quản lý chất ma túy, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Do đó cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này trong tình hình xã hội hiện nay.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật nhà nước ta.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[5] Về các hành vi khác:

- Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo L vào ngày 16/01/2022, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo, là phù hợp.

- Đối với nguồn gốc ma túy, bị cáo L khai nhận mua của một người nữ giới (không rõ nhân thân, lai lịch). Quá trình điều tra, chưa xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột tách ra khỏi vụ án, tiếp tục điều tra xác minh làm rõ xử lý sau, là phù hợp.

Đối với bà S là mẹ của bị cáo L, quá trình điều tra xác định bà S cho L mượn chiếc xe mô tô biển số B, sau đó L sử dụng chiếc xe mô tô trên đi mua ma túy bà S không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý, là phù hợp.

[6] Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 0,1200 gam chất ma tuý, loại Methamphetamine còn lại sau giám định và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu đựng trong 01 (một) phong bì số: 140/GĐMT-PC09 ngày 25/01/2022 của phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk, là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HALIM, số loại 100, màu xanh đen, biển số: B, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là bà S. Ngày 15/4/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc xe mô tô biển số B cho bà S nhận quản lý, sử dụng là phù hợp.

luật.

[7] Về án phí: Bị cáo L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 17/01/2022.

[2] Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc xe mô tô nhãn hiệu HALIM, số loại 100, màu xanh đen, biển số: B cho bà S là chủ sở hữu nhận quản lý, sử dụng.

- Tịch thu tiêu hủy 0,1200 gam chất ma tuý, loại Methamphetamine còn lại sau giám định và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu, đựng trong 01 (một) phong bì số: 140/GĐMT-PC09 ngày 25/01/2022 ghi “Mẫu vật còn lại sau giám định vụ L”, được niêm phong có các chữ ký ghi tên: T, H và đóng dấu tròn màu đỏ phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk, là tang vật của vụ án.

(Vật chứng có đặc điểm và số lượng như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06/5/2022 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột).

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo L phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 150/2022/HS-ST

Số hiệu:150/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;