Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 145/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 145/2022/HS-ST NGÀY 26/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 4 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 148/2022/HSST, ngày 18 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 159/2022/QĐXXST - HS, ngày 13 tháng 4 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn VQ - sinh năm 1975. Nơi cư trú: Thôn 5, xã QG, huyện QX, tỉnh Thanh Hóa. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 3/12. Con ông Nguyễn Viết Tuyết và bà Trần Thị Oanh. Vợ: Phạm TT – sinh năm 1977. Bị cáo có 03 con, lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2005. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 17/3/2016 bị Tòa án nhân dân huyện QX, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Ngày 16/8/2017 bị Tòa án nhân dân huyện QX, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 05 tháng 19 ngày tù về tội “Đánh bạc” (Đã chấp hành xong hình phạt). Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/12/2021 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thanh Hóa (có mặt).

2. Họ và tên: Lê BĐ - sinh năm 1995. Nơi cư trú: Thôn 4, xã QG, huyện QX, tỉnh Thanh Hóa. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 6/12. Con ông Lê Bá Sáu (đã chết) và bà Trần Thị Vàng. Vơ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/12/2021 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa (có mặt).

* Người chứng kiến: Anh Trần VB - sinh năm 1985 (vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà X Kiều Đại, phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Phạm TT - sinh năm 1977 (có mặt) Địa chỉ: Thôn 5, xã QG, huyện QX, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 10 phút ngày 09/12/2021, tại khu vực đường Kiều Đại thuộc phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa. Tổ công tác của Công an phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa kiểm tra hành chính đối với Lê BĐ. Tại chỗ Đức tự giác giao nộp 01 phong bì thư bên trong có 01 gói ni lon màu trắng kích thước (4x6) cm chứa chất bột màu trắng. Đức khai nhân đây là gói Heroine, Đức mua hộ cho Nguyễn VQ với số tiền 2.000.000 đồng của Nguyễn Thị Giang do Quyết liên hệ thỏa thuận trước.

Căn cứ vào lời khai của Đức, Cơ quan CSĐT đã làm việc với Quyết, cả Đức và Quyết đều khai nhận: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 09/12/2021, Nguyễn VQ rủ Lê BĐ đi mua ma túy về cùng nhau sử dụng. Quyết điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Deahan BKS 36L3-1460 chở Đức đến khu vực Hồ nhà Lê, thuộc phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa để mua ma túy, trên đường đi Quyết đưa cho Đức 2.000.000 đồng. Do đã được Quyết dặn từ trước, nên Đức cầm tiền đi vào ngõ cạnh Hồ nhà Lê, Đức gọi “chị Giang ơi”, lúc này có người phụ nữ trong nhà lên tiếng, Đức luồn tay qua cửa sắt đưa tiền, người phụ nữ cầm tiền và đưa cho Đức 01 phong bì thư bên trong có chứa Heroine, Đức cầm đi ra đầu ngõ thị bị Công an kiểm tra, thu giữ.

Tại Kết luận giám định số: 3707/PC09 ngày 13/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Các cục bột màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,280gam (một phẩy hai tám không gam), loại: Heroine.

Về nguồn gốc số ma túy: Qúa trình điều tra đã tiến hành đối chất giữa Nguyễn VQ và Nguyễn Thị Giang, nhưng Giang không thừa nhận đã bán ma túy cho Đức, không quen biết Quyết, cũng không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Deahan, BKS 36L3-1460 thu giữ của Quyết, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu của chị Phạm TT (vợ Quyết) trú tại thôn 5, xã QG, huyện QX, tỉnh Thanh Hóa, chị Tam không biết việc Quyết dùng xe chở Đức đi mua ma túy, nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa đã trả lại chiếc xe cho chị Phạm TT theo quy định của pháp luật.

Số vật chứng của vụ án thu được và còn lại sau giám định gồm: 01 phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thanh Hóa; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 106 màu đen thu giữ của Nguyễn VQ, hiện đang được nhập kho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 100/CT-VKS ngày 16/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa đã truy tố các bị cáo Nguyễn VQ, Lê BĐ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa tại phiên tòa luận tội đối với các bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn VQ, Lê BĐ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, (khoản 2 đối với Nguyễn VQ) Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn VQ từ 18 đến 24 tháng tù.

Xử phạt bị cáo Lê BĐ từ 15 đến 18 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 106 màu đen thu giữ của Nguyễn VQ. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thanh Hóa.

Về án phí: Buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, các bị cáo Nguyễn VQ, Lê BĐ đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo đã thống nhất với lời khai của người chứng kiến và những người tham gia tố tụng khác về hành vi đã thực hiện, thời gian, địa điểm, vật chứng thu được và các chứng cứ khác phản ánh tại hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 10 phút ngày 09/12/2021, tại khu vực đường Kiều Đại thuộc phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa. Tổ công tác của Công an phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang Nguyễn VQ, Lê BĐ đã có hành vi tàng trữ 1,280gam (một phẩy hai tám không gam), loại: Heroine với mục đích để sử dụng. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa truy tố các bị cáo Nguyễn VQ, Lê BĐ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử thấy rằng: Đây là vụ án có tính chất nghiêm trọng, bởi hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, là vấn đề đang rất quan tâm và trở nên nhức nhối trong xã hội hiện nay. Hiểm họa về ma túy đã làm cho nhiều người, nhiều gia đình vi phạm pháp luật, là nguyên nhân dẫn tới làm phát sinh nhiều tội phạm khác. Bản thân các bị cáo phải là người hiểu rõ nhất về tác hại của ma túy đối với sức khỏe, nhân cách, kinh tế, hạnh phúc gia đình và hậu quả khôn lường, nhưng các bị cáo không ý thức được những điều đó, vẫn tàng trữ để sử dụng. Vì vậy, cần có đường lối xử lý nghiêm khắc đối với các bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Xét vị trí, vai trò của các bị cáo: Đây là vụ án với vai trò là đồng phạm giản đơn. Nguyễn VQ là người có vị trí đứng đầu vụ án, bởi Quyết là người khởi xướng việc mua ma túy, sử dụng phương tiện, liên hệ địa điểm, đưa tiền cho Lê BĐ. Cho nên, trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Quyết phải chịu ở mức cao hơn bị cáo Đức.

[5] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Nguyễn VQ là người có nhân thân xấu, đã 02 lần bị Tòa án xét xử về hành vi “Đánh bạc”, nên cần được xem xét. Lê BĐ có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội. Bị cáo Quyết có bố đẻ tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước được tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẽ vang hạng Nhì; Huân chương kháng chiến hạng Ba và là thương binh hạng 4/4. Cho nên, các bị cáo đều được hưởng chung tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Quyết được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Từ những nhận xét đánh giá trên, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành công dân tốt, biết chấp hành pháp luật.

[7] Khi quyết định hình phạt, xét thấy các bị cáo thuộc đối tượng không có việc làm, không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[8] Về vật chứng của vụ án: Cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 106 màu đen thu giữ của Nguyễn VQ dùng để liên lạc mua ma túy. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thanh Hóa.

[9] Về án phí: Buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 17; Điều 38; khoản 1 Điều 47; điểm s khoản 1, (khoản 2 đối với Nguyễn VQ) Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự. Khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn VQ, Lê BĐ phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

* Xử phạt: 1. Bị cáo Nguyễn VQ 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2021.

2. Bị cáo Lê BĐ 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/12/2021.

* Về xử lý vật chứng: Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 106 màu đen. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thanh Hóa, theo Biên bản giao, nhận vật chứng số: 102/2022/THA, hồi 08 giờ 00 phút ngày 18/4/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

* Về án phí: Buộc các bị cáo Nguyễn VQ, Lê BĐ mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 145/2022/HS-ST

Số hiệu:145/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;