Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 144/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 144/2022/HS-ST NGÀY 22/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 154/2022/HSST, ngày 21 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 153/2022 /QĐXXST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Vũ Đông N, sinh năm 1980.

HKTT: Phố Tn, phường Đ, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Ngọc Ninh, sinh năm 1952 và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1956; Có vợ là Nguyễn Thị T; Có 02 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2012; Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 20/5/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/3/2021.

Nhân thân: Ngày 18/8/2019 bị Công an xã Đông Tân, thành phố Thanh Hóa xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 28/12/2021 đến ngày 31/12/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thanh Hóa; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 28/12/2021, tổ Công tác Công an phường Đ, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa làm nhiệm vụ tuần tra trên tuyến đường Quốc lộ 47 đã phát hiện Vũ Đông N có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra đã phát hiện và thu giữ bên trong tất chân bên trái của N 01 gói nilong màu trắng, bên trong chứa 01 viên nén màu hồng trên mặt có ký hiệu “WY” và 02 gói giấy màu trắng, KT mỗi gói khoảng (0,5x1)cm đều chứa chất bột màu trắng. Đấu tranh sơ bộ, N khai nhận đó là ma túy loại heroine và hồng phiến, N mua về để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản thu giữ tang vật.

Tại cơ quan điều tra, Vũ Đông N khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 12giờ ngày 28/12/2021, N đi bộ từ nhà đến khu vực bờ sông thuộc phố T, phường Đ, thành phố H để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, N gặp và mua của một người đàn ông không biết tên, địa chỉ 02 gói ma túy loại heroine với giá 400.000đ và 01 viên hồng phiến với giá 100.000đ. Sau khi mua được số ma túy trên, N cất giấu vào bên trong tất chân bên trái. Trên đường đi tìm nơi để sử dụng thì bị tổ tuần tra phát hiện, bắt quả tang.

Tại kết luận giám định số 260/MT-PC09 ngày 31/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa đã kết luận:

- 01 viên nén màu hồng, trên mặt có ký hiệu “WY” của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng trọng lượng 0,100g, loại Methamphetamin.

- Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng trọng lượng 0,275g, loại heroine.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho N, do N khai không biết tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, xử lý.

Tại cáo trạng số 104/CT-VKS, ngày 18/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa truy tố Vũ Đông N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa giữ nguyên Quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; Tuyên bố bị cáo Vũ Đông N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy, đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù và đề nghị xử lý vật chứng.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin được hưởng sự khoan hồng với mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thanh Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Vũ Đông N thừa nhận: Vào khoảng 12giờ 30 phút ngày 28/12/2021, tổ Công tác làm nhiệm vụ tuần tra trên tuyến đường Quốc lộ 47 thuộc phố T, phường Đ, thành phố Thanh Hóa đã phát hiện và bắt quả tang Vũ Đông N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Theo kết luận giám định tang vật thu giữ của Vũ Đông N là ma túy trọng lượng có tổng trọng lượng 0,100g, loại Methamphetamin và 0,275g, loại heroine. Các chất ma túy thu giữ của Vũ Đông N là các chất ma túy khác nhau nhưng đều nằm trong điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, tổng trọng lượng ma túy thu giữ là 0,375g.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Quyết định truy tố và lời luận tội của Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Vũ Đông N phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo biết rõ ma túy là một trong những tệ nạn nguy hiểm cho xã hội, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của nhiều gia đình. Ma túy đã làm kiệt quệ về sức khỏe và tài sản, là nguyên nhân làm gia tăng tội phạm, gây lan truyền căn bệnh HIV/ADS. Do nghiện ma túy nên bị cáo đã tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý về các chất gây nghiện của Nhà nước và còn gây mất trật tự trị an xã hội.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tiền án, chưa được xóa án tích, lần phạm tội này là tái phạm, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra truy tố và tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Với tính chất vụ án nghiêm trọng, với nhân thân của bị cáo, xét cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như vậy mới đủ điều kiện cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

Do bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy còn lại sau giám định là mặt hàng Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Đông N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Đông N 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/12/2021.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu huỷ Một phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, được đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa. Bên trong chứa số ma túy còn lại sau giám định.

Hiện số tang vật và tài sản đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 94/2022/THA ngày 13/4/2022 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa với Công an thành phố Thanh Hóa.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14. Bị cáo Vũ Đông N phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 144/2022/HS-ST

Số hiệu:144/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;