Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 137/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 137/2022/HS-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Bản án 137/2022/HS-ST ngày 29/07/2022 Bản án 137/2022/HS-ST ngày 29/07/2022 Ngày 29 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 140/2022/HSST ngày 23 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 134/2022/QĐXXST - HS ngày 18 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Cầm Văn A – Sinh năm 1986; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản D, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 0/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Cầm Văn H (đã chết) và bà Lò Thị H1; Bị cáo sống chung như vợ chồng với Vì Thị X và 02 con (con lớn nhất sinh năm 2006, con nhỏ nhất sinh năm 2012); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ 18/3/2022 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Tòng Văn K - Sinh năm 1995; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản D, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Tòng Văn H (đã chết) và bà Lò Thị D; Bị cáo có vợ là Cà Thị L và 01 con (sinh năm 2018); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ 18/3/2022 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 25 phút, ngày 18/3/2022 tổ công tác Công an xã M phối hợp với đồn Biên phòng M, S làm nhiệm vụ tại bản C, xã M, huyện S phát hiện bắt quả tang Tòng Văn K và Cầm Văn A có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi quần bên trái của A có 01 gói linon màu hồng bên trong có chứa 02 viên nén màu hồng (A, K khai nhận là Hồng phiến). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ niêm phong vật chứng, ngoài ra còn tạm giữ 01 xe mô tô BKS 26C1- 158.84.

Ngày 19/3/2022 tại Công an huyện Sông Mã tiến hành mở niêm phong cân tịnh xác định khối lượng vật chứng nghi là ma túy, kết quả: 02 viên nén màu hồng có tổng khối lượng là 0,19 gam, đã trích 01 viên có khối lượng 0,09 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu S, vật chứng còn lại 01 viên có khối lượng 0,10 gam ký hiệu K.

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận: Khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 18/3/2022 A đến nhà rủ K đi tìm mua ma tuý về sử dụng, K bảo không có tiền thì A nói đang có 19.000đ, K đồng ý đi cùng A và tự lấy xe mô tô BKS 26C1 – 158.84 của Tòng Thị H3 (chị gái K) đưa cho A điều khiển rồi cùng nhau đi lên bản K2, xã M2, huyện S để tìm mua ma tuý, khi đi đến đầu bản K2 thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết đứng ở ven đường, A điều khiển xe đến gần và hỏi mua được 03 viên hồng phiến với số tiền 19.000đ, mua được ma tuý A với K đi vào ven đường lấy 01 viên ra cùng nhau sử dụng bằng hình thức đốt hít vào cơ thể, 02 viên còn lại A gói lại rồi cất giấu vào trong túi quần bên trái đang mặc. Sau đó K điều khiển xe mô tô chở A đi về, khi về đến bản C, xã M, huyện Sông Mã thì gặp tổ công tác Công an xã M và đồn Biên phòng M, Sông Mã làm nhiệm vụ kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang A và K tàng trữ trái phép chất ma tuý, thu giữ vật chứng như đã nêu trên Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 72/CT-VKSSM ngày 22 tháng 6 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Cầm Văn A, Tòng Văn K về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý và xử phạt các bị cáo như sau: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Tòng Văn K từ 15 – 19 tháng tù, xử phạt bị cáo Cầm Văn A từ 16 – 20 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung, miễn án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo cho các bị cáo. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 mảnh nilon, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu và 0,10 gam Methamphetamine được đựng trong 01 túi nilon.

Tại phiên tòa các bị cáo đều thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nhất trí với nội dung bản cáo trạng truy tố và khi được nói lời sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau - Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 09 giờ 30 phút, ngày 18/3/2022 đối với Tòng Văn K, Cầm Văn A cùng vật chứng thu giữ là 02 viên nén màu hồng. Kết luận giám định số 508 ngày 21/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận là ma túy: “... Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,19 gam loại Methamphetamine”.

- Lời khai nhận tội của các bị cáo về việc ngày 18/3/2022 bị cáo A đã rủ bị cáo K góp tiền cùng nhau đi mua ma túy về sử dụng, nhưng bị cáo K không có tiền nên bị cáo A đã bỏ ra 19.000đ và cùng bị cáo K đi tìm mua được 03 viên hồng phiến, sau khi mua được đã cùng nhau sử dụng hết 01 viên còn lại 02 viên đang trên đường vận chuyển trở về thì bị phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

- Lời khai nhận tội của các bị cáo về thời gian địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với nhau và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Các bị cáo không có thay đổi, bổ sung gì về lời khai làm thay đổi nội dung vụ án. Các bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 18/3/2022 bị cáo Cầm Văn A, Tòng Văn K đã có hành vi tàng trữ 0,19 gam loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang nên hành vi của các bị cáo thuộc trường hợp được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt từ “01 năm đến 05 năm tù”.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Là vụ án có đồng phạm. Trong đó bị cáo A là người K xướng việc đi mua ma túy về sử dụng, bỏ tiền ra và trực tiếp tiến hành việc trao đổi mua bán được ma túy nên giữ vai trò chính trong vụ án. Bị cáo K sau khi tiếp nhận ý chí từ bị cáo A đã nhất trí, hứa sẽ góp tiền sau, chuẩn bị phương tiện và đi mua ma túy cùng bị cáo A nên giữ vai trò đồng phạm giúp sức tích cực, do vậy bị cáo được hưởng mức án thấp hơn so với mức án của bị cáo A.

Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, với khung hình phạt bị truy tố có mức phạt tù từ “01 đến 05 năm”. Các bị cáo đều nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

[4] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo: Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Vì vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, khối lượng ma tuý, vai trò của từng bị cáo trong vụ án để đưa ra một mức án phù hợp nhất, nhằm giáo dục các bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và cũng đảm bảo biện pháp răn đe, phòng ngừa chung, góp phần thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra đã làm rõ gia đình các bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, các bị cáo đều không có tài sản riêng gì có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[6] Về vật chứng vụ án:

Đối với 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 mảnh nilon và 0,10 gam Methamphetamine được đựng trong 01 túi nilon màu trắng là các vật Nhà nước cấm tàng trữ lưu hành và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Các vấn đề khác có liên quan trong vụ án:

Về người đàn ông đã bán ma túy cho các bị cáo, các bị cáo khai không quen biết và chỉ gặp lần đầu ở ngoài đường nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện không để mở rộng điều tra vụ án là có căn cứ chấp nhận.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave α BKS 26C1 – 158.84 xác định được là tài sản hợp pháp của Tòng Thị H3 (chị gái K) do bị cáo K tự ý sử dụng vào việc đi mua ma túy, chị H3 không biết, nên ngày 10/6/2022 cơ quan CSĐT Công an huyện Sông Mã đã trao trả lại chiếc xe mô tô cho chị H3 quản lý, sử dụng là đúng quy định nên HĐXX không xem xét.

[8] Về án phí: Các bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số sống tại xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng, tội danh và hình phạt:

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố các bị cáo Cầm Văn A, Tòng Văn K phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Cầm Văn A 17 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/3/2022. Xử phạt bị cáo Tòng Văn K 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/3/2022.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh nilon màu hồng, 01 mảnh nilon màu trắng, 0,09 gam Methamphetamine được đựng trong 01 túi nilon màu trắng. Tất cả được đựng trong 01 phong bì được niêm phong, dán kín theo đúng quy định của pháp luật. Trên giấy niêm phong ở mặt sau phong bì có mã số 081706.

Theo Quyết định chuyển vật chứng số 66/QĐ – VKS ngày 24/6/2022 của VKSND huyện Sông Mã và theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/4/2022 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 29/7/2022)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 137/2022/HS-ST

Số hiệu:137/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;