TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 177/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:
Trì Ngọc Cẩm T, sinh năm 1987 tại tỉnh Tây Ninh; Nơi cư trú: Khu phố 2, Phường L H, thị xã H T, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Không có; Trình độ học vấn: 08/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Cao đài; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trì Ngọc C, sinh năm 1960 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Thu L, sinh năm 1965; Vợ: Phạm Thị Mỹ V, sinh năm 1983 (đã ly hôn); Con: có 01 người, 05 tuổi; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma Ty 02 lần: Quyết định số 01 ngày 05-01-2017 với số tiền 750.000 đồng, nộp phạt ngày 05-01-2017 và Quyết định số 185 ngày 20-12-2017 với số tiền 750.000 đồng, nộp phạt ngày 20-12-2017; Bị cáo bị tam giữ từ ngày 06-11-2020, chuyển tạm giam từ ngày 12-11-2020 đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trì Ngọc Cẩm T bắt đầu sử dụng ma túy từ năm 2017. T thường mua ma túy của người tên H (không rõ họ tên, địa chỉ) đem về sử dụng. Khoảng 04 giờ ngày 06-11-2020 do có nhu cầu sử dụng ma túy, T đón xe taxi đến khu vực xã Phan, huyện D, tỉnh Tây Ninh gặp Hiếu mua 01 bịch ma Ty với giá 300.000 đồng. T lấy bịch ma túy cất vào Ti quần rồi đón xe taxi đến phòng trọ số 4 nhà cho thuê Bảo V gặp Trịnh Thành P, sinh năm 1982 ngụ ấp Long C, xã Long K, huyện Bến C, tỉnh Tây Ninh. Tại đây, T gặp Võ Chí H, sinh năm 1989 ngụ Khu phố 3, phường 4, thành phố Tây Ninh và Cao Văn H, sinh năm 1981, ngụ ấp Lộc An, xã Lộc G, huyện Đức H, tỉnh Long An. Lúc này, P đi vào nhà vệ sinh, H đang ngồi trên ghế, Hiền đang nằm trên giường, T nhìn thấy có 01 bộ sử dụng ma túy để ở góc phòng. T lấy 01 ít ma túy vừa mua được bỏ vào tẩu thủy tinh để sử dụng, số ma túy còn lại T để trên nền gạch cạnh chỗ T ngồi. Trong lúc T đang sử dụng ma túy , P đi ra và đến sử dụng ma túy cùng với T. Đến khoảng 05 giờ cùng ngày thì bị lực lượng Công an phường Hiệp N, thành phố Tây Ninh kiểm tra phát hiện T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên lập biên bản bắt giữ T cùng tang vật.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tây Ninh, Trì Ngọc Cẩm T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.
* Kết luận giám định số 1794/KL-KTHS ngày 09-11-2020của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Mẫu tinh thể rắn trong suốt bên trong 01 (một) bịch nylon loại kẹp đầu (ký hiệu M) gửi đến giám định là chất ma Ty; Loại Methamphetamine; Khối lượng 0,3025 gam.
* Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: 01 bì thư niêm phong ghi vụ số 1794/KL-KTHS có dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Tây Ninh có chữ ký của giám định viên và 01 chai nhựa có nắp màu đen trên nắp chai có 02 lỗ, 01 lỗ cấm ống hút nhựa, 01 lỗ cấm ống thủy tinh có đáy hình cầu đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tây Ninh.
Qua xác minh Trì Ngọc Cẩm T không có tài sản nên không tiến hành kê biên.
Bản cáo trạng số 175/CT-VKS-TPTN ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây N, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Trì Ngọc Cẩm T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Lúc 05 giờ 10 phút, ngày 06-11-2020, tại phòng trọ số 4 nhà cho thuê Bảo V, Hẻm 75 Cách mạng tháng Tám, Khu phố Hiệp B, phường Hiệp N, thành phố Tây N, tỉnh Tây Ninh; Trì Ngọc Cẩm T bị bắt quả tang đang tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,3025 gam để sử dụng.
Hành vi của Trì Ngọc Cẩm T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy nên phải chịu trách nhiệm hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trì Ngọc Cẩm T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trì Ngọc Cẩm T từ 12 đến 15 tháng tù.
Biện pháp tư pháp: Áp dụng các điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử lý vật chứng theo quy định.
Bị cáo tự bào chữa: Bị cáo không tranh luận.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo ăn năn, hối cải, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Tây N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây N, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Về hành vi của bị cáo: Xét thấy quan điểm và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát trong phần tranh tụng tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án và đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Lúc 05 giờ 10 phút, ngày 06-11-2020, tại phòng trọ số 4 nhà cho thuê Bảo V, Hẻm 75 Cách mạng tháng Tám, Khu phố Hiệp B, phường Hiệp N, thành phố Tây N, tỉnh Tây Ninh; Trì Ngọc Cẩm T bị bắt quả tang đang tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,3025 gam để sử dụng. Do đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trì Ngọc Cẩm T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, với tính chất nghiêm trọng. Ma túy là chất gây nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý, cấm sử dụng, mua bán dưới mọi hình thức, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác như trộm cắp, cướp giật … gây mất trật tự trị an địa phương nên cần xét xử nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và có thái độ ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của bị cáo. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. [5] Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Tại biên bản xác minh ngày 18-11-2020 (Bút lục 70) tại Công an phường Long Thành Trung, thị xã Hòa Thành thể hiện: Trì Ngọc Cẩm T từng bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy 02 lần: Quyết định số 01 ngày 05-01-2017 với số tiền 750.000 đồng, nộp phạt ngày 05-01-2017 và Quyết định số 185 ngày 20-12-2017 với số tiền 750.000 đồng, nộp phạt ngày 20-12-2017.
[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không còn tài sản nào khác nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng, xử lý vật chứng:Áp dụng các điều 46, 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- 01 bì thư niêm phong ghi vụ số 1794/KL-KTHS có dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Tây Ninh có chữ ký của giám định viên là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.
- 01 chai nhựa có nắp màu đen trên nắp chai có 02 lỗ, 01 lỗ cấm ống hút nhựa, 01 lỗ cấm ống thủy tinh có đáy hình cầu là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Trì Ngọc Cẩm T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trì Ngọc Cẩm T 01 (Một) năm tù.
Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 06-11-2020.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 46, 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư niêm phong ghi vụ số 1794/KL-KTHS có dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Tây Ninh có chữ ký của giám định viên và 01 chai nhựa có nắp màu đen trên nắp chai có 02 lỗ, 01 lỗ cấm ống hút nhựa, 01 lỗ cấm ống thủy tinh có đáy hình cầu.
3. Về án phí sơ thẩm: Bị cáo T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai báo cho bị cáo T biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2021/HS-ST
Số hiệu: | 13/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về