Bản án 04/2021/HS-ST ngày 22/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HOÀ, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 04/2021/HS-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22/01/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 100/2020/HSST ngày 31 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXX-HSST ngày 06 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo :

Lê Trọng L – sinh năm 1977 NĐKNKTT và chỗ ở: tổ dân phố số 2, TT Thắng, huyện H, tỉnh Bắc Giang. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Trọng Lợi - sinh năm 1949 và bà Ngô Thị T – sinh năm 1956; Vợ: Nguyễn Thị H – sinh năm 1981; Bị cáo có ba con: lớn sinh năm 1997, nhỏ sinh năm 2015; Gia đình có ba anh chị em bị cáo là con cả;

*Tiền án: không;

*Tiền sự: Ngày 07/02/2020, bị Chủ tịch UBND thị Trấn Thắng, huyện Hiệp Hòa Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thời gian 03 tháng kể từ ngày 07/02/2020 đến 07/05/2020.

*Nhân thân:

-Bản án số 36/2008/HSST ngày 30 tháng 7 năm 2008 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Hiệp Hòa từ ngày 15/12/2020.(Có mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

-Chị Nguyễn Thị H – sinh năm 1981(Có mặt) Địa chỉ: tổ dân phố số 2, TT Thắng, huyện H, tỉnh Bắc Giang;

* Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Hoàng S - sinh năm 1958(Vắng mặt) Địa chỉ: DT2, xã D, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.

-Chị Nguyễn Thanh H – sinh năm 1984(Vắng mặt) Địa chỉ: tổ dân phố A, TT Thắng, huyện H, tỉnh Bắc Giang

-Anh Trần Văn L – sinh năm 1988(Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ dân phố D, TT Thắng, Hiệp Hòa, Bắc Giang;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 15 phút, ngày 15/12/2020 tại tổ dân phố Dinh Hương, TT Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Hiệp Hòa bắt quả tang Lê Trọng L – sinh năm 1977 ở tổ dân phố số 2, TT Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: thu tại túi ngực bên trái áo khoác L đang mặc 02(hai) gói giấy, trong đó: 01 gói giấy là loại giấy lịch, mặt trong màu trắng, mặt ngoài có chữ và số màu xanh và 01 gói giấy mặt trong màu trắng, mặt ngoài có hoa văn nhiều màu. Bên trong mỗi gói giấy đều chứa chất cục bột màu trắng nghi là ma túy, L khai nhận đó là ma túy của L tàng trữ với mục đích để sử dụng. Công an huyện Hiệp Hòa đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong toàn bộ vật chứng thu giữ trong phong bì thư có ký hiệu “QT”. Ngoài ra, Công an huyện Hiệp Hòa còn thu giữ của L: 01 chiếc điện thoại Masstel có số IMEI1: 35721310218975 và số IMEI2: 357213102399688; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave số 009550 mang tên Nguyễn Mạnh H.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Trọng L, kết quả không thu giữ được gì.

Ngày 15/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa ra Quyết định trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Giang giám định số vật chứng nghi là ma túy thu giữ của Lê Trọng L khi bắt quả tang.

Tại kết luận giám định số 1801 ngày 16/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

“Trong 01(một) phong bì có ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định:

- Chất cục bột màu trắng đựng trong 01(một) gói giấy(Loại giấy lịch) mặt ngoài có chữ và số màu xanh, mặt trong màu trắng là ma túy, có khối lượng 0,094 gam, loại Hêrôine.

- Chất cục bột màu trắng đựng trong 01(một) gói giấy mặt ngoài có hoa văn nhiều màu, mặt trong màu trắng là ma túy, có khối lượng là 0,06 gam Hêrôine”.

Quá trình điều tra bị cáo Lê Trọng L khai: Bị cáo là người nghiện ma túy nên khoảng 10 giờ 30 phút ngày 15/12/2020, L điều khiển xe mô tô BKS 98P9 – 0394 một mình đi từ nhà sang khu vực xã Thanh Xuyên, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên mua ma túy để sử dụng. Khi đến khu vực phố Thanh Xuyên, L thấy một người đàn ông(L không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này) đang đứng ở lề đường L đi đến gần và hỏi: “Có để cho 100”(Ý L hỏi mua của người đàn ông đó 100.000đ tiền ma túy). Người đàn ông trả lời “Có”. Sau đó, L lấy 100.000đồng ra đưa cho người đàn ông, người này cầm tiền và lấy từ trong túi quần ra 01 gói giấy và đưa cho L, L mở gói giấy ra và kiểm tra thấy bên trong có chất cục bột màu trắng là ma túy Hêrôine. L gói số ma túy vừa mua được lại và để vào túi áo ngực bên trái áo khoác đang mặc trên người rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khi đi đến địa phận xã Thường Thắng, L dừng lại, lấy một tờ giấy(Loại giấy lịch) ở trong ví ra và chia gói ma túy vừa mua được làm hai gói. Sau đó, L lại gói lại và để vào túi áo ngực bên trái áo khoác L đang mặc. Khi đi đến khu vực cống Ba Mô thuộc địa phận tổ dân phố Dinh Hương, thị trấn Thắng, huyện Hiệp Hòa thì L bị Cơ quan Công an huyện Hiệp Hòa kiểm tra và bắt quả tang.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích tính chất, hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo vẫn giữ nguyên về tội danh, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Trọng L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, p khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015;

Xử phạt bị cáo Lê Trọng L từ 20 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 15/12/2020.

Về hình phạt bổ sung: Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, không có công ăn việc làm và không có tài sản tích lũy nên đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư được niêm phong có ký hiệu là “QT”; bên trong có chứa các mẫu còn lại sau giám định có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang.

* Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS:

+Trả lại cho bị cáo Lê Trọng L 01 điện thoại Masstel có số IMEI1:

35721310218975 và số IMEI2: 357213102399688 + Trả lại cho chị Nguyễn Thị H 01 xe máy hiệu Honda Wave màu đen, trắng mang BKS: 98P9 – 0394 đã qua sử dụng; 01 đăng ký xe mô tô số Honda Wave số 009550 mang tên Nguyễn Mạnh Hùng.

Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 332, 333, 334 Bộ luật tố tụng hình sự; Áp dụng điểm đ Điều 12 nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 cuả Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn án phí cho bị cáo Lê Trọng L.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa,Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người làm chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án về không gian, thời gian xảy ra vụ án. Điều đó có đủ căn cứ để kết luận bản Cáo trạng số 07/CT – VKSHH ngày 28 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa truy tố bị cáo Lê Trọng L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng người, đúng tội không oan.

[3] Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 15/12/2020, Công an huyện Hiệp Hòa đã bắt quả tang tại tổ dân phố Dinh Hương, TT Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang bị cáo Lê Trọng L - sinh năm 1977 ở tổ dân phố số 2, TT Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,154 gam ma túy Herôin, L khai tàng trữ số ma túy trên để sử dụng. Bản thân L là người nghiện ma túy nên khoảng 10 giờ 30 phút ngày 15/12/2020, L một mình điều khiển xe mô tô BKS 98P9 – 0394 đi từ nhà sang khu vực xã Thanh Xuyên, Thị xã Phổ yên, tỉnh Thái Nguyên mua ma túy để sử dụng. Khi đến Phố Thanh Xuyên L đã gặp một người đàn ông mà L không biết tên, tuổi, địa chỉ L đã hỏi mua 100.000đ ma túy của người đàn ông này và người đàn ông này đã bán ma túy cho L. Sau khi mua được ma túy L đã cất trong túi áo ngực bên trái và đi về nhà, khi đến địa phận xã Thường Thắng L đã dừng xe và chia số ma túy vừa mua được làm hai gói, L gói số ma túy vừa chia đó và cất tất cả vào trong túi ngực áo khoác bên trái rồi đi tiếp về nhà. Khi đến khu vực cống Ba Mô thuộc địa phận tổ dân phố Dinh Hương, TT Thắng, huyện Hiệp Hòa thì L bị Cơ quan Công an huyện Hiệp Hòa kiểm tra và bắt quả tang.

[4] Hành vi phạm tội của Lê Trọng L là nguy hiểm cho xã hội, ma túy gây hại lớn cho sức khỏe con người và xã hội, ma túy làm cho người nghiện suy kiệt về sức khỏe, sa sút về kinh tế, là nguyên nhân tan vỡ của gia đình. Hiện nay ma túy đã trở thành tệ nạn xã hội và là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các loại vi phạm, tội phạm khác như mại dâm, trộm cắp, cướp của, giết người...; bản thân bị cáo là người đã trưởng thành có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ tính nguy hiểm của hành vi phạm tội nhưng vẫn cố ý phạm tội. Việc tàng trữ trái phép chất ma tuý để sử dụng có thể dẫn đến chết người, làm lây nhiễm căn bệnh thế kỷ HIV, làm suy đồi đạo đức xã hội và suy thoái giống nòi, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình và là nguồn gốc phát sinh của nhiều loại tội phạm khác nên cần phải được xử lý nghiêm.

[5] Xét về mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị, HĐXX thấy là tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cho bị cáo, HĐXX cần phân tích đánh giá như sau:

-Xét Về nhân thân, bị cáo có nhân thân xấu : Tại Bản án số 36/2008/HSST ngày 30/7/2008 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang đã xử phạt bị cáo 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

-Tiền sự: Ngày 07/02/2020, L bị Chủ tịch UBND thị trấn Thắng, huyện Hiệp Hòa có Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thời gian 03 tháng kể từ ngày 07/02/2020 đến ngày 07/5/2020 nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục con đường nghiện ngập. Điều này chứng tỏ bị cáo là người khó cải tạo nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian cải tạo và tu dưỡng bản thân tốt hơn là có căn cứ.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS nào theo quy định tại Điều 52 BLHS.

Xét về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bên cạnh đó, bị cáo là người khuyết tật và bị cáo có giấy chứng nhận khuyết tật, hàng tháng bị cáo được hưởng chế độ của người khuyết tật nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 51 BLHS cho bị cáo là có căn cứ.

Qua đánh giá nêu trên, HĐXX xét thấy cần thiết phải áp dụng Điều 38 BLHS buộc cách ly bị cáo Lê Trọng L ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm chung. Bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Hiệp Hòa nên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo cho việc thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy không có nghề nghiệp và thu nhập nên không có tài sản tích lũy. HĐXX xét thấy, không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là có căn cứ.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho L, do L không biết cụ thể tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có bằng chứng để xử lý người này là có căn cứ.

Đối với ông nguyễn Mạnh Hùng là người đứng tên trên giấy đăng ký xe mà vợ chồng L đang sở hữu Cơ quan điều tra đã xác minh chiếc xe đã được ông Hùng bán cho vợ chồng L nên không liên quan gì đến ông Hùng nữa. Vì vậy, HĐXX không xem xét đến vấn đề này là có căn cứ.

[6] Về vật chứng: Đối với chiếc xe máy hiệu Honda Wave màu đen, trắng có biển kiểm soát 98P9 - 0394 đã được vợ chồng L mua thì do L không có sức lao động nên chiếc xe vẫn được vợ L là chị Nguyễn Thị H sử dụng đi lại để làm việc nuôi con. HĐXX xét thấy, gia đình bị cáo L có hoàn cảnh rất khó khăn chiếc xe máy là tài sản của vợ chồng nhưng chị Hạnh không biết bị cáo sử dụng xe máy để đi mua ma túy về sử dụng. Vì vậy, HĐXX thấy cần thiết trả lại chiếc xe cùng 01 đăng ký xe cho chị Hạnh là có căn cứ.

-Đối với số mẫu ma túy còn lại sau giám định là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy là có căn cứ.

-Đối với 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Masstel có số IMEI1: 35721310218975 và số IMEI2: 357213102399688 là tài sản của L. Tại phiên tòa HĐXX đã xác định được L không sử dụng vào việc mua bán ma túy nên cần tuyên trả bị cáo là có căn cứ.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo L là người khuyết tật nên miễn án phí HSST cho bị cáo và tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo là có căn cứ.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Trọng L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy";

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, p khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Lê Trọng L 20 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 15/12/2020.

[6] Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư được niêm phong có ký hiệu là “QT”; bên trong có chứa các mẫu còn lại sau giám định có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang.

* Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS:

+ Trả lại cho bị cáo Lê Trọng L: 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Masstel có số IMEI1: 35721310218975 và số IMEI2: 357213102399688;

+ Trả lại cho chị Nguyễn Thị H 01 xe máy hiệu Honda Wave màu đen, trắng có biển kiểm soát 98P9 – 0394 cùng 01 đăng ký xe Honda Wave số 009550 mang tên Nguyễn Mạnh Hùng ;

*Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 332, 333, 334 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14ngày 30/12/2016 cuả Ủy ban thường vụ Quốc hội để tuyên quyền kháng cáo và miễn nộp án phí cho bị cáo Lê Trọng L.

Báo cho bị cáo có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

629
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2021/HS-ST ngày 22/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;