Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 127/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 127/2021/HS-ST NGÀY 20/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 126/2021/HSST ngày 06 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 140/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Lại Đức D, sinh ngày 06/7/1985; nơi sinh: Tỉnh T. Nơi cư trú: Thôn N, xã V, huyện K, tỉnh T. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lại Đức H và bà Vũ Thị D1; vợ là Nguyễn Thị H1 (đã ly hôn), có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/6/2021 đến ngày 04/6/2021 chuyển tạm giam cho đến nay.

* Người chứng kiến:

- Anh Đinh Đức H2, sinh năm 1983.

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã A, huyện Q, tỉnh T.

- Anh Phạm Văn Q1, sinh năm 1993.

Nơi cư trú: Số nhà 11, tổ 13, phường K1, thành phố T, tỉnh T. (Tại phiên tòa có mặt bị cáo, vắng mặt anh H2, anh Q1).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 00 phút ngày 01/6/2021 Lại Đức D điều khiển xe đạp điện từ nhà đến khu vực đường P, tổ 17, phường K1, thành phố T với mục đích mua ma túy về sử dụng. Tại đây D gặp và mua của một người nam giới khoảng 40 tuổi không biết tên và địa chỉ được 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng. D điều khiển xe đi tìm để sử dụng, khoảng 06 giờ 45 phút cùng ngày, khi D đi đến khu vực đường L, tổ 20, phường T1, thành phố T thì tổ công tác Phòng cảnh sát cơ động Công an tỉnh T yêu cầu D dừng xe để kiểm tra. Trước sự chứng kiến của anh Phạm Văn Q1 và anh Đinh Đức H2, D tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói, D khai nhận đây là gói ma túy, loại hêrôin D mua với mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác quản lý của D 01 điện thoại Nokia màu đen và số tiền 10.000 đồng. Kiểm tra xe đạp điện của D không thu giữ tài sản gì.

Bản kết luận giám định số 196/KLGĐMT-PC09, ngày 02/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Chất bột màu trắng trong phong bì niêm phong ghi: “Vật chứng quản lý của Lại Đức D, sinh năm 1985, ĐKHKTT tại thôn N, xã V, huyện K, tỉnh T, ngày 01/6/2021 gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1203 gam.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi của mình như bản cáo trạng đã nêu.

Bản cáo trạng số 130/CT-VKSTPTB ngày 06 tháng 9 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị: Xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 01/06/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số Heroine (Hêrôin) còn lại sau giám định là 0,0805 gam. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen và số tiền 10.000 đồng nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo không bào chữa và không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố vụ án được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được chứng minh bằng:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang.

- Biên bản niêm phong vật chứng.

- Kết luận giám định số số 196/KLGĐMT- PC09 ngày 02/6/2021.

- Biên bản ghi lời khai của người chứng kiến.

Cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 06 giờ 45 phút ngày 01/6/2021, tại khu vực đường L, tổ 20, phường T1, thành phố T, tổ công tác Phòng cảnh sát cơ động Công an tỉnh Thái Bình bắt quả tang Lại Đức D có hành vi tàng trữ trái phép 0,1203 gam ma túy, loại Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

[3] Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự là người có nhân thân tốt. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tình tiết này được giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, cần thiết phải xử phạt mức hình phạt nghiêm minh với hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ lượng ma túy ít, để sử dụng, không nhằm mục đích kiếm lời, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án:

- Số Hêrôin còn lại sau giám định là 0,0805 gam thu giữ của bị cáo, đây là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen và số tiền 10.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo.

- Chiếc xe đạp điện màu đen bạc không đeo biển kiểm soát là tài sản của ông Lại Đức H, là bố đẻ bị cáo. Ông Hiệt cho D mượn xe không biết D sử dụng xe để đi mua ma túy nên cơ quan Điều tra đã trả lại chiếc xe cho ông Hiệt là phù hợp.

[7] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua của một người người nam giới khoảng 40 tuổi không biết tên, địa chỉ tại khu vực đường P, tổ 17, phường K1, thành phố T, tỉnh T nên cơ quan Cảnh sát Điều tra không có căn cứ để xử lý.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ Điều 135, Điều 106, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lại Đức D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lại Đức D 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 01/6/2021.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy số Hêrôin còn lại sau giám định là 0,0805 gam trong phong bì niêm phong số 196/KLGĐMT- PC09 ngày 02/6/2021.

- Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen và số tiền 10.000 đồng nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng Công an thành phố Thái Bình đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình ngày 07/9/2021).

4. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (20/9/2021)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 127/2021/HS-ST

Số hiệu:127/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;