Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 126/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 126/2022/HS-ST NGÀY 28/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 7 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 124/2022/TLST-HS ngày 08/7/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 128/2022/QĐXXST- HS ngày 18/7/2022 đối với bị cáo:

Tráng A L, sinh năm 1984 tại, huyện M, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản P, xã L, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông Tráng Láo V và bà Lầu Thị D (Đều đã chết); bị cáo có vợ là Sồng Thị N và 02 con; tiền án: Không;

- Tiền sự: Ngày 09/6/2018 Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 24 tháng. Tráng A L chấp hành xong ngày 09/6/2020. (Chưa được xóa tiền sự)

- Nhân thân: Ngày 17/4/2015, Tráng A L bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu xử phạt 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Đã được xóa án tích).

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/4/2022 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 30 phút ngày 12/4/2022, tổ công tác Công an huyện Mộc Châu làm nhiệm vụ tại tiểu khu P, thị trấn N, huyện M kiểm tra đối với Tráng A L đang đi bộ trên đường dân sinh. Qua kiểm tra phát hiện Lự đang cất giấu trong người 01 túi nilon màu xanh bên trong đựng 07 viên nén màu hồng trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY nghi là Methamphetamine. Tráng A L khai nhận đó là Methamphetamine của Tráng A L cất giấu mục đích để sử dụng cho bản thân. Căn cứ hành vi vi phạm của Tráng A L tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng và dẫn giải Tráng A L về Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu để điều tra, xử lý.

Ngày 12/4/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã tiến hành xác định khối lượng 07 viên nén màu hồng nghi là Methamphetamine thu giữ của Tráng A L được 0,75 gam, lấy toàn bộ 0,75 gam làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu L.

Tại Kết luận giám định số 650 ngày 13/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu L là ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,75 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,75 gam; Loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra Tráng A L khai nhận: Bản thân nghiện chất ma túy. Khoảng 07 giờ ngày 12/4/2022, L đi bộ từ nhà đến khu vực biên giới V – L thuộc bản P, xã L mục đích để tìm mua ma túy sử dụng. Đến nơi, L gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết, qua trao đổi L đã hỏi và mua được của người phụ nữ đó 01 túi nilon màu xanh bên trong đựng 07 viên hồng phiến (Methamphetamine) với giá 150.000 đồng. L cất giấu số ma túy mua được vào túi áo khoác bên trái đang mặc rồi đi nhờ xe máy của một người đàn ông không quen biết đến tiểu khu P, thị trấn N, huyện M để tìm việc làm thuê. Khi đến tiểu khu P, thị trấn N, L xuống xe và đi bộ trên đường dân sinh thì gặp tổ công tác Công an huyện Mộc Châu kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang.

Tại bản Cáo trạng số 94/CT- VKS ngày 07 tháng 7 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Tráng A L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Tráng A L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị áp dụng các căn cứ pháp luật xử lý đối với bị cáo như sau:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt Tráng A L từ 24 tháng đến 30 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

- Về vật chứng của vụ án: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) chiếc phong bì có ghi dòng chữ: Vật chứng vụ: Tráng A L, bắt ngày 12/4/2022 (một túi nilon màu xanh và phong bì niêm phong ban đầu.01 (một) chiếc phong bì thư do Bưu điện phát hành còn nguyên niêm phong, một mặt có ghi dòng chữ: test ma túy của Tráng A L, ngày 12/4/2022, kq: Dương tính và 01 (một) chiếc phong bì ghi “ vật chứng vụ Tráng A L - Cất giấu trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 12/4/2022, gồm có: 01 phong bì niêm phong gửi giám định đã bóc mở niêm phong và chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu L, không sử dụng đến trong quá trình giám định có khối lượng là 0,24 gam theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 122/BBVC-CCTHA ngày 15/7/2022 giữa Công an huyện Mộc Châu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mộc Châu.

- Về án phí: Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Tráng A L.

Sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát và có lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[ ] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[ ] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Tráng A L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan Điều tra, số ma túy bị tổ công tác Công an huyện Mộc Châu thu giữ có nguồn gốc của bị cáo mua được của một người phụ nữ không quen biết với giá 150.000đ vào ngày 12/4/2022, mục đích để sử dụng. Lời khai của bị cáo không có nội dung gì thay đổi so với lời khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra, bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định; kết luận giám định; lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Tráng A L là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy nhưng do nghiện ma túy nên ngày 12/4/2022 bị cáo Tráng A L đã có hành vi tàng trữ 0,75 gam Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi trên của bị cáo đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo Tráng A L không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bị cáo: Bị cáo không tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khái báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện chất ma túy và đã có tiền án, tiền sự: Tại quyết định số 199/QĐ-TA ngày 09/6/2018, Tráng A L bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng. Tại bản án số 67/2015/HSST ngày 17/4/2015, Tráng A L bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu xử phạt 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tuy nhiên đã được xóa án tích.

Từ những đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, sống chung với gia đình nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[ ] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với: 01 (một) chiếc phong bì có ghi dòng chữ: Vật chứng vụ: Tráng A L, bắt ngày 12/4/2022 (một túi nilon màu xanh và phong bì niêm phong ban đầu.01 (một) chiếc phong bì thư do Bưu điện phát hành còn nguyên niêm phong, một mặt có ghi dòng chữ: test ma túy của Tráng A L, ngày 12/4/2022, kq: Dương tính và 01 (một) chiếc phong bì ghi “ vật chứng vụ Tráng A L - Cất giấu trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 12/4/2022, gồm có: 01 phong bì niêm phong gửi giám định đã bóc mở niêm phong và chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu L, không sử dụng đến trong quá trình giám định có khối lượng là 0,24 gam. Xét thấy, đây là những vật thuộc loại Nhà nước cấm mua bán, lưu hành, không có giá trị sử dụng. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[ ] Về các vấn đề khác: Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho Tráng A L và người đàn ông cho L đi nhờ xe máy như L đã khai, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ. Do đó, không có căn cứ để điều tra, làm rõ và xử lý.

[ ] Về án phí: Bị cáo thuộc là người dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Tại phiên tòa bị cáo xin được miễn án phí. Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[7] Về thời hạn tạm giam: Xét thấy thời hạn tạm giam của bị cáo còn lại dưới 45 ngày, do đó, Hội đồng xét xử quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các l trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Tráng A L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Tráng A L 27 (Hai mươi bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày 12/4/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) chiếc phong bì có ghi dòng chữ: Vật chứng vụ: Tráng A L, bắt ngày 12/4/2022 (một túi nilon màu xanh và phong bì niêm phong ban đầu.01 (một) chiếc phong bì thư do Bưu điện phát hành còn nguyên niêm phong, một mặt có ghi dòng chữ: test ma túy của Tráng A L, ngày 12/4/2022, kq: Dương tính và 01 (một) chiếc phong bì ghi “ vật chứng vụ Tráng A L - Cất giấu trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 12/4/2022, gồm có: 01 phong bì niêm phong gửi giám định đã bóc mở niêm phong và chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu L, không sử dụng đến trong quá trình giám định có khối lượng là 0,24 gam theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 122/BBVC-CCTHA ngày 15/7/2022 giữa Công an huyện Mộc Châu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mộc Châu.

3. Về án phí : Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Tráng A L.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 126/2022/HS-ST

Số hiệu:126/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;