Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 124/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 124/2022/HS-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 123/2022/ HSST ngày 24 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 150/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2022 đối với:

Bị cáo Lê Ngọc P, Sinh năm 1958; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Số nhà ... NC, phường NN, thành phố TH, tinh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 6/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Lê Ngọc C (đã chết) và bà Lê Thị Ô (đã chết); Vợ Nguyễn Thị L , sinh năm 1964; Bị cáo có 03 con, con lớn nhất 34 tuổi, con nhỏ nhất 28 tuổi; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2008, bị tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 24 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy.

Bị cáo không bị tạm giữ tạm giam; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (Có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 07/10/2021, Tổ công tác Công an phường Đông Hải, TP. Thanh Hóa thực hiện nhiệm vụ tuần tra tại khu vực Đại lộ Nam Sông Mã (thuộc phường Nam Ngạn, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa) đã tiến hành kiểm tra đối với Lê Ngọc P . Khi bị kiếm tra, P đã thả từ tay phải xuống đường 01 gói giấy màu trắng, bên trong có 04 gói nilon màu đen, kích thước mỗi gói khoảng 01x01 cm đều chứa chất bột màu trắng. Tại chỗ, P khai nhận đây là số Heroine P cất giữ để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác công an phường Đông Hải đã lập biên bản, thu giữ, niêm phong số ma túy vật chứng gửi giám định theo quy định Tại Kết luận giám định số 3116/PC09 ngày 11/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột màu trắng của phòng bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,260 gam, loại Heroine.

Quá trình điều tra, Lê Ngọc P khai bản thân là người nghiện ma túy, nên khoảng 07 giờ ngày 07/10/2021, P một mình đi bộ đến khu vực bờ đê Sông Mã tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây P gặp và mua được của một người đàn ông không rõ tên tuổi, lai lịch 04 gói ma túy với giá 400.000đ sau đó đi về nhà, bọc 4 gói ma túy vào một tờ giấy trắng (dạng giấy ăn) cất giấu trong người để sử dụng dần. Khoảng 09 giờ 30 ngày 07/10/2021 P cầm số ma túy trên tay đi tìm nơi sử dụng, khi đi đến khu vực Đại lộ Nam Sông Mã (thuộc phường Đông Hải, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa) thì bị Công an kiểm tra, P thả gói ma túy trên tay xuống đất nhưng bị Công an phát hiện bắt quả tang. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án.

Vật chứng vụ án hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự TP. Thanh Hóa gồm: Một phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa, có hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự, kèm chữ ký, chữ viết của Lê Minh Tiến, Trịnh Thị Thu Hương, Vũ Huy Bình theo “Biên bản giao nhận vật chứng” số 72/2022/THA ngày 01/3/2022 giữa Công an thành phố Thanh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

Đối với người nam giới đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết nhân thân, địa chỉ người này nên Cơ quan CSĐT không có cơ sở để xác minh, xử lý.

Tại Cáo trạng số 73/CT-VKS ngày 24/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố Lê Ngọc P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249;

điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 - của Bộ luật hình sự tuyên bố Lê Ngọc P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Xử phạt Lê Ngọc P từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án; Vật chứng vụ án: áp dụng khoản 1, khoản 2 điều 106 BLTTHS, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Bị cáo Lê Ngọc P thừa nhận hành vi phạm tội và xin được hưởng khoan hồng với mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Căn cứ mục đích, hành vi của bị cáo và kết quả giám định có đủ cơ sở kết luận: Hồi 09 giờ 00 phút ngày 07/10/2021 tại khu vực Đại lộ Nam Sông Mã (thuộc phường Đông Hải, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa) Lê Ngọc P đã có hành vi cất giữ trái phép 0,260g chất ma túy, loại Heroin nhằm mục đích sử dụng. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Viện kiểm sát nhân dân TP. Thanh Hóa truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất vụ án: Vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lí của Nhà nước về việc cất giữ, vận chuyển, trao đổi chất ma túy. Xâm phạm trật tự an toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân dẫn đến những hành vi phạm tội khác nên cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc để răn đe giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Xét tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo do đó được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51- Bộ luật hình sự; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị kết án về tội mua bán trái phép chất ma túy nhưng không quyết tâm sửa chữa lỗi lầm mà tiếp tục phạm tội. Vì vậy, HĐXX xem xét để có mức án phù hợp, đảm bảo tính răn đe cũng như sự khoan hồng của pháp luật, và cần cách li bị cáo ra khỏi đời sống cộng đồng xã hội một thời gian đề cải tạo giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội và để phòng ngừa chung.

[4] Đối với người nam giới bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết nhân thân, lai lịch, địa chỉ người này nên Cơ quan CSĐT không có cơ sở để xác minh xử lý là đúng.

[5] Vật chứng vụ án: Số ma túy mẫu vật còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy khi án có hiệu lực pháp luật theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 106 - BLTTHS.

[6] Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 điều 136 BLTTHS; khoản 1 điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố: Bị cáo Lê Ngọc P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Lê Ngọc P 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án - Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1, điểm a, b khoản 2, 3 Điều 106 BLTTHS. Sau khi án có hiệu lực pháp luật, tịch thu tiêu hủy số ma túy vật chứng còn lại sau giám định. Vật chứng hiện đang thu giữ tại Chi cục THADS thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 72/2022/THA ngày 01/3/2022 giữa Công an thành phố Thanh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 - Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Ngọc P phải chịu 200.000đ án phí HSST.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Lê Ngọc P có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 124/2022/HS-ST

Số hiệu:124/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;