Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 124/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 124/2021/HS-ST NGÀY 12/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 130/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 130/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Quốc T, sinh năm 1992, tại Đồng Nai. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 5, xã PT, huyện TP, tỉnh ĐN. Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam: tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn C – 1971 và bà Trần Thị M– 1965; vợ: Nguyễn Ngọc H, có 01 con nhỏ sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/7/2021, chuyển tạm giam từ ngày 09/8/2021 cho đến nay (có mặt).

Người làm chứng: Nguyễn Thái Thanh B, sinh năm 1991 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 1, xã PL, huyện TP, tỉnh ĐN

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 20 giờ 30 phút, ngày 30/7/2021, tại ấp 4, xã PL, huyện TP, tỉnh ĐN, Công an xã Phú Lộc trong quá trình tuần tra kiểm soát đảm bảo an ninh trật tự và phòng chống Covid-19 đã phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang Nguyễn Quốc T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vật chứng vụ án gồm 01 gói nilong có khóa zip bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi ma túy được giấu trong vành mủ lưỡi trai màu đen của T đang đội trên đầu, vật chứng được niêm phong, giám định theo đúng quy định. Ngoài ra còn thu giữ: 01 mũ lưỡi trai, 01 điện thoại hiệu Nokia, 01 xe mô tô biển số 63F8-3792.

Vật chứng nghi là chất ma tuý được thu giữ, niêm phong và trưng cầu giám định đúng quy định. Kết luận giám định số 1635/KLGĐ-PC09 ngày 05/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai xác định.

- Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 3,2190 gam, loại: Methamphetamine.

Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 3,1721 gam. Toàn bộ đối tượng giám định được hoàn lại trong niêm phong số: 1635/KLGĐ-PC09.

Quá trình điều tra xác định: Ngày 27/7/2021, T gọi điện cho Tân (không rõ nhân thân) để hỏi mua ma túy về sử dụng. Khoảng 10 giờ ngày 30/7/2021, Tân gọi điện cho T hẹn giao ma túy tại chợ Phú Lợi, huyện Định Quán. Khoảng 13 giờ ngày 30/7/2021, T điều khiển xe mô tô biển số 49P-4215 đến khu vực chợ Phú Lợi thì bị Công an xã Phú Lợi lập biên bản giữ xe vì vi phạm quy định về phòng dịch. Lúc này T đi bộ đến ngã tư trước chợ Phú Lợi nhận 01 gói ma túy và trả cho Tân 1.000.000đ. T gọi điện cho B xuống đón về. Khi cả hai về tới ấp 4, xã Phú Lộc thì bị bắt.

Quá trình điều tra T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 130/CT-VKSTP-ĐN ngày 26/10/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú truy tố Nguyễn Quốc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như Cáo trạng đã mô tả, việc Tòa án xét xử bị cáo là đúng tội danh, không oan sai. Bị cáo nhờ B đi chở bị cáo nhưng B không biết bị cáo cất ma túy trong người của bị cáo.

Kiểm sát viên sau khi phân tích các dấu hiệu phạm tội, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; đặc điểm nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T 01 (một) năm (06) tháng tù đến 02 (hai) năm tù.

Về xử lý vật chứng: Ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành, 01 mũ lưỡi trai là công cụ phạm tội cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại hiệu Nokia dùng để liên lạc mua ma túy cần tịch thu phát mãi sung công.

Bị cáo không bào chữa, tranh luận cho hành vi của mình và nói lời sau cùng như sau: Trong thời gian bị tạm giam bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là trái pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về hoà nhập với cộng đồng và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên đã được thực hiện đúng về trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi, tính chất, mức độ phạm tội: Bị cáo không cung cấp tài liệu chứng cứ mới và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại tòa là phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận:

Vào lúc 20 giờ 30 phút ngày 30/7/2021, tại ấp 4, xã PL, huyện TP, tỉnh ĐN, Nguyễn Quốc T bị lực lượng công an kiểm tra, khám xét phát hiện trong vành mũ lưỡi trai của T có 01 gói nilong có khóa zip bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi ma túy thì bị lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng vật chứng. Chất tinh thể màu trắng qua giám định là Methamphetamine có trọng lượng 3,2190 gam.

Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền về quản lý, sử dụng chất ma túy của Nhà nước. Bản thân bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy, nhưng vẫn cố ý tàng trữ để sử dụng. Vì vậy, để giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài để sửa đổi, rèn luyện bản thân sau này không vi phạm nữa.

[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân:

[4.1] Không có tình tiết tăng nặng;

[4.2] Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi; có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4.3] Bị cáo có nhân thân tốt.

[5] Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Xét thấy, trước và sau khi phạm tội bị cáo không có việc làm, không có thu nhập và tài sản riêng do đó không áp dụng hình phạt bổ sung.

[6] Các biện pháp tư pháp:

Đối với số lượng ma túy còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành; 01 mũ lưỡi trai là vật dụng dùng tàng trữ ma túy cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động Nokia màu trắng là phương tiện thực hiện tội phạm cần tịch thu phát mãi sung công quỹ Nhà nước.

[7] Về các vần đề khác:

Đối tượng tên Tân là người T khai bán ma túy cho mình, cơ quan điều tra chưa xác định nhân thân lai lịch nên chưa có cơ sở xem xét trách nhiệm hình sự.

Nguyễn Thái Thanh B dùng xe mô tô chở T nhưng không biết hành vi phạm tội của T nên không xem xét vai trò trong vụ án.

[8] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân, loại hình phạt áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử. Tuy nhiên, do bị cáo tàng trữ khối lượng ma túy lớn (3,2190g) nên mức hình phạt Viện kiểm sát đề nghị áp dụng là nhẹ, không đủ tác dụng răn đe, phòng ngừa trong xã hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

- Khoản 1 Điều 46; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Nguyễn Quốc T 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 31/7/2021.        

Các biện pháp tư pháp:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong mẫu vật sau giám định số 1635/KLGĐ-PC09 ngày 05/8/2021 bên trong chứa chất ma túy; 01 mũ lưỡi trai.

Tịch thu phát mãi sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại Nokia màu trắng.

Vật chứng được tạm giữ tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28/10/2021 giữa Chi cục Thi hành án dân sự và Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú.

Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 124/2021/HS-ST

Số hiệu:124/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;