Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 122/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 122/2022/HS-ST NGÀY 15/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 89/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn H, sinh năm 1991, tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi cư trú: Số 1, đường 457, tổ 6, ấp C, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 02/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Đ và bà Nguyễn Thị T; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 10/12/2021 và tạm giam cho đến nay, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bà Trần Thị L, sinh năm 1972; địa chỉ: Số 8, đường ĐX 110, khu phố 9, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt;

- Ông Lê Trung T, sinh năm 1993; địa chỉ: Số 10/3, tổ 31, khu 3, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Nguyễn Lam T, ông Ngô Tấn V, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 10/12/2021, trong lúc Lê Văn H đang ở nhà tại địa chỉ số 103, đường 457, tổ 6, ấp C, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh thì nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng nên điều khiển xe mô tô Dream, màu đen, biển số 61F9-2686 đi đến khu vực chợ Trung An, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh để tìm mua ma túy. Khi đến nơi, H gặp người nam (hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy đá (Methamphetamine) với số tiền 500.000 đồng thì người Nam này đưa H 01 gói nylon hàn kín có chứa ma túy đá. Mua xong, H cất giấu gói ma túy trong ốp lưng điện thoại rồi điều khiển xe đến chỗ làm tại phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Khi H điều khiển xe đi đến đường Huỳnh Thị Hiếu, đoạn qua khu phố 9, phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một thì bị lực lượng tuần tra thuộc Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bình Dương phối hợp cùng với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an thành phố Thủ Dầu Một và Công an phường Tân An trên đường tuần tra, kiểm soát an ninh trật tự phát hiện H có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra thì phát hiện trong ốp lưng điện thoại của H có 01 gói nylon hàn kín, bên trong có chứa tinh thể màu trắng. H khai nhận là ma túy đá H cất giấu để sử dụng. Lực lượng tuần tra tiến hành đưa H đến Công an phường Tân An để lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và thu giữ số vật chứng, gồm: 01 (một) gói nylon hàn kín, bên trong có chứa tinh thể màu trắng; 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu đỏ, có sim số 0932.610.033, số IMEI 1: 863539042959539, số IMEI 2:

863539042959521; 01 (một) ốp lưng điện thoại màu xám đen và 01 (một) xe mô tô kiểu dáng Dream, biển số 61F9-2686, số khung AM100*00126702*, số máy LC150FM*00126702*.

Căn cứ Kết luận giám định số 780/MT-PC09 ngày 13/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Tinh thể màu trắng trong 01 (một) gói nylon hàn kín là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,4746 gam. Khối lượng ma túy hoàn lại sau giám định 0,3508 gam. Đối với số ma túy hoàn lại sau giám định, ngày 16/5/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Toà án tịch thu, tiêu hủy.

Đối với xe mô tô kiểu dáng Dream, biển số 61F9-2686, số khung AM100*00126702*, số máy LC150FM*00126702* do chị Trần Thị L đứng tên giấy chứng nhận đăng ký xe. Quá trình làm việc, chị L khai đã bán xe mô tô nói trên cho một người nam (không rõ nhân thân, lai lịch) vào năm 2010 và không làm thủ tục mua bán xe. Lê Văn H khai xe mô tô trên H mượn của anh Lê Trung T để làm phương tiện đi lại. Quá trình làm việc, anh T khai nhận xe trên anh T mua tại tiệm sửa xe máy (không xác định được địa chỉ cụ thể) tại phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương vào năm 2016. Ngày 07/12/2021, anh T cho H mượn xe làm phương tiện đi lại và anh T không biết việc H sử dụng đi mua ma túy nên ngày 04/5/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đã giao trả xe mô tô nói trên cho anh T. Hiện anh T không có yêu cầu gì.

Đối với điện thoại di động hiệu OPPO màu đỏ, có sim số 0932.610.033, số IMEI 1: 863539042959539, số IMEI 2: 863539042959521 và ốp lưng điện thoại màu xám đen thu giữ của Lê Văn H, ngày 16/5/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Tòa án xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với người Nam bán ma túy cho Lê Văn H, do quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Thủ Dầu Một chưa xác định được nhân thân, lai lịch của người này và H khai nhận không biết rõ lai lịch, địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý khi có đủ căn cứ.

Cáo trạng số 102/CT-VKS-HS ngày 23/5/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo H mức hình phạt từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù.

- Về biện pháp tư pháp: Đề nghị hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy số ma tuý hoàn lại sau giám đinh 0,3508 gam, loại Methamphetamine; đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đỏ, có sim số 0932.610.033, số IMEI 1: 863539042959539, số IMEI 2: 863539042959521 và 01 ốp lưng điện thoại màu xám đen, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình và không có ý kiến tranh luận; trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, các lời khai trong quá trình điều tra và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ căn cứ kết luận: Khoảng 10 giờ 30 ngày 10/12/2021, trên đường Huỳnh Thị Hiếu, đoạn qua khu phố 9, phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, bị cáo H có hành vi tàng trữ 0,4746 gam ma tuý, loại Methamphetamine để sử dụng thì bị lực lượng Công an bắt quả tang nên hành vi mà bị cáo H thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo với tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Về nhận thức, bị cáo biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, làm phát sinh các tệ nạn xã hội. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến chế độ quản lý chất ma túy của Nhà nước mà còn ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Do vậy, Hội đồng xét xử cần xử bị cáo mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về vật chứng và biện pháp tư pháp: Đối với 0,3508 gam ma túy, loại Methamphetamine là vật chứng của vụ án, không có giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đỏ, có sim số 0932.610.033, số IMEI 1: 863539042959539, số IMEI 2: 863539042959521 và 01 ốp lưng điện thoại màu xám đen không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự [8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 260 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Văn H 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/12/2021.

2. Về vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy: 0,3508 gam ma túy, loại Methamphetamine; theo Kết luận giám định số 780/MT-PC09 ngày 13/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Dương.

- Trả lại bị cáo Lê Văn H 01 (Một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Oppo màu đỏ, không kiểm tra được số Imei và số thuê bao do khoá máy (không kiểm tra chi tiết, tình trạng hoạt động); 01 (Một) ốp lưng điện thoại màu xám đen.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 110.22 ngày 20/5/2022 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một và Công an thành phố Thủ Dầu Một).

3. Về án phí: Bị cáo Lê Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 122/2022/HS-ST

Số hiệu:122/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;