Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 12/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 12/2022/HS-ST NGÀY 10/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 03 năm 2020, tại Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 04/2022/TLHS-ST ngày 20 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2022/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo: Trần Anh T; (Tên gọi khác: Không); Sinh ngày 20 tháng 4 năm 1983 tại Thái Nguyên; Nơi ĐKHKTT: Xóm 4, xã PX, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên; Nơi ở hiện nay: Xóm 6, xã PX, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông: Trần Anh S, sinh năm: 1954; con bà: Nguyễn Thu N (đã chết); Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Có vợ là: Nông Huyền T1, sinh năm 1987 (đã ly hôn); Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại Quyết định số 2620/QĐ – UBND ngày 05/7/2010 của Ủy ban nhân dân huyện Đại Từ bắt buộc đưa Trần Anh T vào chữa trị, cai nghiện và phục hồi, chống tái nghiện tại T tâm chữa bệnh giáo dục LĐXH huyện trong thời gian 12 tháng; (đã thi hành xong ngày 07/7/2011); Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/7/2021. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên.( có mặt).

*Người bào chữa cho bị cáo (Do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu): Luật sư Nguyễn Thị Thanh N1, Văn phòng luật sư Thanh Nghĩa thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thái Nguyên; (có mặt).

* Người làm chứng:

1.Chị Lương Thị T2, sinh năm 1989; Trú tại: Xóm 6, xã PX, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên (Có mặt) * Những người chứng kiến:

1.Anh Lương Tùng D, sinh năm 1991; Trú tại: Xóm ĐT, xã LB, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt).

2.Ông Trương Văn C, sinh năm 1964; trú tại: Xóm 6, xã PX, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt).

3. Anh Trần Anh H, sinh năm 1983; Trú tại Thôn CT, xã CL, huyện BV, thành phố Hà Nội (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 30 phút ngày 20/7/2021, tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế và ma túy Công an huyện Đại Từ làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực xóm ĐT, xã LB, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang Trần Anh T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Kiểm tra, thu giữ của T: 01 vỏ chai nhựa nhãn hiệu ICE+ thể tích 490ml bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng được bọc bên ngoài bằng 02 lớp túi nilon màu trắng – T khai là ma túy tổng hợp dạng đá của mình tàng trữ để sử dụng - niêm phong ký hiệu NS2A-0692080. Tạm giữ của T số tiền 3.070.000đ - niêm phong ký hiệu A, 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA biển số 20M2-7540, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen vỏ ốp màu đen – niêm phong ký hiệu B và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen vỏ ốp màu xanh - niêm phong ký hiệu C. Ngoài ra, anh Lương Tùng D, sinh năm 1991, HKTT: Xóm ĐT, xã LB, huyện ĐT còn giao nộp 02 thẻ nhớ ở camera an ninh tại cửa hàng của gia đình anh có hình ảnh Trần Anh T cầm chai nhựa nhãn hiệu ICE+ chứa ma túy trước khi Cơ quan điều tra bắt quả tang T (niêm phong ký hiệu E). Cơ quan điều tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Anh T đồng thời đưa T cùng vật chứng về Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra làm rõ.

Vào hồi 15 giờ cùng ngày, khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Anh T tại xóm 6, xã PX, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên. Phát hiện, thu giữ trong mép chăn trải giường của T 02 túi nilon màu trắng chứa các hạt tinh thể trắng; 01 túi nilon màu xanh bên trong chứa 19 viên nén màu hồng – được niêm phong ký hiệu T. Trong hộp giấy để trên đầu giường ngủ của T phát hiện thu giữ 01 túi nilon màu xanh bên trong chứa 03 viên nén màu hồng - niêm phong ký hiệu T1. T khai tất cả đều là ma túy tổng hợp của T tàng trữ để sử dụng. Ngoài ra, T còn khai nhận cất giấu ma túy tại khu vực sân thượng tầng 2 nhà chị Lương Thị T2 (nhà liền kề với nhà của T) tại xóm 6, xã PX, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên.

Căn cứ lời khai của Trần Anh T, hồi 18 giờ 45 phút ngày 20/7/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đại Từ tiến hành khám nghiệm hiện trường tại khu vực sân thượng tầng 2 nhà chị Lương Thị T2 tại xóm 6, xã PX, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên. Phát hiện, thu giữ dưới gầm của dàn ống nóng năng lượng mặt trời 01 ống nhựa PVC đường kính 09cm, chiều dài 1,2m bên trong có chứa:

+ 01 túi nilon màu trắng bên trong có 01 chiếc tất màu hồng, trong chiếc tất màu hồng có 01 túi nilon màu trắng chứa 9,5 viên nén màu xanh (T xác định đây là thuốc tây) và 01 túi nilon màu trắng có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (T xác nhận là ma túy tổng hợp dạng đá của T) – niêm phong ký hiệu K;

+ 01 cân tiểu ly nhãn hiệu POCKET, màu đen;

+ 01 túi nilon màu trắng bên trong có 01 chai trà xanh 0 độ, bên trong có 01 túi nilon màu đen chứa các hạt tinh thể màu trắng và 01 túi nilon màu hồng bên trong chứa 17 viên nén màu hồng; 01 túi nilon màu hồng bên trong có chứa 57 viên nén màu hồng và 01 viên nén màu xanh (T xác nhận là ma túy tổng hợp dạng đá và hồng phiến của T) – niêm phong ký hiệu H.

Tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng:

- Mở niêm phong NS2A-0692080: Số hạt tinh thể màu trắng có khối lượng 49,033 gam, lấy 2,609 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu S1, còn lại lưu kho theo quy định ký hiệu S2.

- Mở niêm phong T:

+ Số hạt tinh thể màu trắng có khối lượng 5,318 gam, lấy 0,825 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu V1, số còn lại lưu kho theo quy định ký hiệu V2.

+ 19 viên nén màu hồng có khối lượng 1,924 gam, lấy 03 viên khối lượng 0,307 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu V3, còn lại 16 viên lưu kho theo quy định ký hiệu V4.

- Mở niêm phong T1: 03 viên nén màu hồng có khối lượng 0,333 gam, lấy toàn bộ gửi giám định ký hiệu V5.

- Mở niêm phong H:

+ Số hạt tinh thể màu trắng có khối lượng 49,392 gam, lấy 0,849 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu H1, còn lại lưu kho theo quy định ký hiệu H2.

+ 74 viên nén màu hồng có khối lượng 8,014 gam, lấy 03 viên có khối lượng 0,315 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu H3, còn lại 71 viên lưu kho theo quy định ký hiệu H4.

+ 01 viên nén màu xanh có khối lượng 0,091 gam, lấy toàn bộ gửi giám định ký hiệu H5.

- Mở niêm phong K:

+ 9,5 viên nén màu xanh có khối lượng 1,598 gam, lấy toàn bộ gửi giám định ký hiệu K1.

+ Số hạt tinh thể màu trắng có khối lượng 1,886 gam, lấy toàn bộ gửi giám định ký hiệu K2.

Tại Kết luận giám định số 1179 ngày 28/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Các hạt tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu S1 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng thu giữ ban đầu: 49,033 gam. Các hạt tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu V1 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng thu giữ ban đầu: 5,318 gam. Các viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu V3 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng thu giữ ban đầu: 1,924 gam. Các viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu V5 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng là: 0,333 gam. Các hạt tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu H1 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng thu giữ ban đầu: 49,392 gam. Các viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu H3 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng thu giữ ban đầu: 8,014 gam. Viên nén màu xanh trong phong bì ký hiệu H5 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng là: 0,091 gam. Các viên nén màu xanh trong phong bì ký hiệu K1 gửi giám định không xác định là chất gì, khối lượng là:

1,598 gam. Các hạt tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu K2 gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine, khối lượng là: 1,886 gam.

Tại Kết luận giám định số 7759/C09-TT2 ngày 29/10/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Không tìm thấy chất ma túy trong mẫu các viên nén màu xanh (niêm phong K1) gửi giám định.

Cơ quan CSĐT đã tiến hành thu mẫu vân tay của Trần Anh T và chị Lương Thị T2 để trưng cầu giám định đường vân ký hiệu K5. Tại Kết luận giám định số 1231/KL-KTHS ngày 11/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Trên các mẫu vật gửi giám định được niêm phong ký hiệu K5 phát hiện được một số dấu vết đường vân tay. Dấu vết đường vân tay phát hiện được có hệ thống đặc điểm riêng ít không đủ yếu tố giám định.

Mở niêm phong B kiểm tra điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, vỏ ốp đen lắp sim số 0357.707303. Tại phần lịch sử cuộc gọi đi, đến phát sinh cuộc gọi từ ngày 15/7/2021 đến 17/7/2021 với số điện thoại 0369.955649 được lưu danh bạ là “Vk A T” - T khai nhận số điện thoại này là của người T đã đặt mua ma túy. Tại ứng dụng Zalo tên đăng nhập là “Anh T” có 01 cuộc gọi nhỡ và 02 tin nhắn với nick “Vk A T”.

Mở niêm phong C kiểm tra điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, vỏ ốp xanh lắp sim số 0364.473206: Không có dữ liệu liên quan.

Quá trình điều tra xác định được như sau:

Do bản thân là người nghiện ma túy nên ngày 17/7/2021, Trần Anh T đã liên lạc với người phụ nữ tên Q được T lưu trong danh bạ điện thoại là “Vk A T” để hỏi mua 30.000.000đ tiền ma túy tổng hợp để sử dụng dần. Q đồng ý, hẹn giao tiền và ma túy cho T tại khu vực đèn xanh đỏ thuộc Tổ dân phố M, thị trấn HS, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên.

Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi mua được ma túy của Q ở địa điểm trên, T mang về nhà tại xóm 6, xã PX, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên. T kiểm tra thấy trong hộp cát tông đựng ma túy mua của Q có 03 loại gồm ma túy tổng hợp dạng đá, ma túy tổng hợp “hồng phiến” và Ketamine. T đã lấy ra 05 viên ma túy tổng hợp “hồng phiến” gói vào 01 túi nilon màu xanh (sau đó T đã sử dụng 02 viên, còn lại 03 viên) T để vào hộp cat-tông ở đầu giường. T tiếp tục gói 19 viên ma túy tổng hợp dạng hồng phiến vào 01 túi nilon màu xanh; lấy một phần ma túy đá gói vào 02 túi nilon màu trắng và cất giấu vào trong mép chăn trải giường của T. Số ma túy còn lại gồm: Ma túy tổng hợp dạng đá T gói vào túi nilon đặt trong 01 chai nhựa loại Trà xanh 0 độ, ma túy tổng hợp dạng hồng phiến và Ketamine thì T gói vào các túi nilon khác nhau. T cho tất cả số ma túy này vào trong 01 ống nhựa PVC cùng với 9,5 viên thuốc tân dược chữa cảm cúm gói trong 01 chiếc tất màu hồng và 01 chiếc cân nhãn hiệu POCKET đem lên sân phía sau tầng 3 trèo sang sân thượng tầng 2 nhà chị Lương Thị T2, sinh năm 1989 (nhà sát liền kề với nhà của T) cất giấu dưới dàn ống nóng năng lượng mặt trời để tránh bị phát hiện.

Khoảng 10 giờ ngày 20/7/2021, T lấy 01 gói ma túy tổng hợp dạng đá trong ống nhựa PVC cho vào 01 chai nhựa ICE+, T cầm chai nhựa chứa ma túy ở tay trái, tay phải điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS biển số 20M2-7540 đi tìm chỗ sử dụng ma túy. Khi T di chuyển đến trước cửa nhà anh Lương Tùng D thuộc xóm ĐT, xã LB, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên kiểm tra, bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Tại bản cáo trạng số 06/CT-VKS-P1 ngày 19/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Trần Anh T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Trong lời luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên sau khi trình bày tóm tắt nội dung vụ án; đánh giá tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận giữ nguyên cáo trạng truy tố về tội danh đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

-Áp dụng điểm h khoản 4 và khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: xử phạt Trần Anh T mức án 16 đến 17 năm tù; phạt bổ sung bị cáo từ 5 đến 7 triệu đồng; Tạm giữ của T 3.070.000đ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo. Tịch thu của bị cáo 2 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO và 1 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, BKS 20M2 – 7540 để sung quỹ nhà nước. Tịch thu tiêu hủy các vật chứng còn lại theo quy định. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo nhất trí với tội danh mà cáo trạng đã truy tố. Tuy nhiên, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy đã bị bắt buộc cai nghiện năm 2010 nhưng bị cáo vẫn không cai được nên đã có hành vi mua ma túy về để sử dụng. Số lượng ma túy bị thu giữ lớn hơn số lượng quy định tại tình tiết tăng nặng định khung theo khoản 4 Điều 249 Bộ luật hình sự không nhiều. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án từ 15 đến 16 năm tù.

Bị cáo không tranh luận gì thêm. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của điều tra viên cơ quan cảnh sát điều tra, của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên; của người bào chữa; việc thu thập chứng cứ của bị can, bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đúng pháp luật.

Về thủ tục tố tụng tại phiên tòa hôm nay, có 2 người chứng kiến vắng mặt nhưng những người này đã có đủ lời khai tại cơ quan điều tra và hoàn toàn phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng khác vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật .

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của những người chứng kiến; phù hợp với kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận: Ngày 20/7/2021, tại khu vực xóm ĐT, xã LB, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên, Công an huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang Trần Anh T có hành vi tàng trữ 49,033 gam ma túy loại Methamphetamine. Cùng ngày, khám xét chỗ ở của Trần Anh T tại xóm 6 xã PX, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên thu giữ 7,575 gam ma túy loại Methamphetamine. Ngoài ra, T còn cất giấu 57,497 gam ma túy loại Methamphetamine và 1,886 gam ma túy loại Ketamine tại sân thượng tầng 2 nhà chị Lương Thi T2 – sát với nhà của T thuộc xóm 6, xã PX, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên. Tất cả số ma túy thu giữ khi bị bắt quả tang, khám xét chỗ ở của T và trên sân thượng tầng 2 nhà chị Lương Thị T2, T tàng trữ với mục đích để sử dụng cho bản thân. Khối lượng hai loại ma túy của T bị thu giữ trong vụ án này là 114,105 gam ma túy loại Methamphetamine và 1,886 gam ma túy loại Ketamine.

Với hành vi tàng trữ 114,105 gam ma túy loại Methamphetamine và 1,886 gam ma túy loại Ketamine để nhằm mục đích sử dụng như đã nêu trên, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Trần Anh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm h khoản 4 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều luật như sau:

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

2….

4.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

a...

h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng… của các chất đó tương đương với khối lượng… chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này…”.

[3] Xét tính chất của vụ án là đặc biệt nghiêm trọng; hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền quản lý sử dụng chất ma túy của nhà nước, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn và tội phạm khác như trộm cắp, cướp của, giết người, gây mất trật tự trị an xã hội, gây sự hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Hành vi của bị cáo cần phải được xét xử nghiêm minh để đảm bảo tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: bị cáo là đối tượng nghiện ma túy. Năm 2010 đã bị đưa đi cai nghiện bắt buộc nhưng sau khi trở về địa phương không chịu tu dưỡng rèn luyện lại thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, khi lượng hình cần xem xét áp dụng hình phạt phù hợp để bị cáo có động cơ cải tạo tốt, sớm trở thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Ngoài hình phạt chính, cần phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền để sung quỹ nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. .

[6] Về vật chứng vụ án được xử lý theo Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự cụ thể:

Đối với 2 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO và chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, BKS 20M2 – 7540 đã thu giữ của bị cáo theo bị cáo khai đã dùng để liên lạc và sử dụng làm phương tiện đi lại và bị bắt khi tàng trữ ma túy nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Số tiền 3.070.000đ đã thu giữ của bị cáo, theo bị cáo khai đó là tiền của bị cáo cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo Đối với 02 thẻ nhớ dữ liệu camera do anh Lương Tùng D, sinh năm 1991, HKTT: Xóm ĐT, xã LB, huyện ĐT giao nộp. Tại cơ quan điều tra, anh D không yêu cầu trả lại cho anh 02 chiếc thẻ nhớ này nên cần tịch thu tiêu hủy cùng các vật chứng khác đã thu giữ của bị cáo theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[8] Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ chấp nhận; Xét đề nghị của vị luật sư bào chữa, Hội đồng xét xử cần xem xét theo quy định của pháp luật.

[9] Trong vụ án này, Trần Anh T đã cất giấu 57,497 gam ma túy loại Methamphetamine và 1,886 gam ma túy loại Ketamine tại sân thượng tầng 2 nhà chị Lương Thị T2. Chị T2 không biết việc T đã cất giấu ma túy dưới dàn ống nóng năng lượng mặt trời trên sân thượng tầng 2 nhà mình nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Về nguồn gốc 114,105 gam ma túy loại Methamphetamine và 1,886 gam ma túy loại Ketamine, theo Trần Anh T khai là T mua của người phụ nữ tên Q. Qúa trình điều tra xác minh được: Phạm Thị Q, sinh ngày 08/12/1975, HKTT: Thôn ĐB, xã MB, huyện YS, tỉnh Tuyên Quang; chỗ ở: Tổ dân phố AN, thị trấn HS, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên. Q thường xuyên vắng mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh làm rõ khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ Điều 326 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Áp dụng điểm h khoản 4 và khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Tuyên bố: bị cáo Trần Anh T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", - Xử phạt bị cáo Trần Anh T 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 20/7/2021. Phạt bổ sung bị cáo 10 triệu đồng sung quỹ nhà nước.

2. Áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự :

*Tạm giữ của T 3.070.000đ đã thu giữ của bị cáo để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

*Tịch thu sung quỹ nhà nước của bị cáo gồm: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, đã qua sử dụng, số IMEI 1: 865073042839911, IMEI 2:

865073042839903; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, đã qua sử dụng, số IMEI 1: 865787056670579, IMEI 2: 865787056670561 và 1 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA màu sơn: đen bạc, biển kiểm soát: 20M2-7540; số khung: RLCS5C6308Y069071, số máy: 5C63069071, dung tích xy lanh: 110 cm3. Tình trạng xe: xe cũ, đã qua sử dụng, xe không có gương chiếu hậu, không kiểm tra máy bên trong.

*Tịch thu tiêu hủy các vật chứng còn lại gồm:

- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu E, trên mép dán niêm phong có chữ ký, ghi họ tên của Lương Tùng D, các thành phần tham gia niêm phong và đóng dấu giáp lai của Công an xã La Bằng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 02 thẻ nhớ được trích từ dữ liệu Camera lắp tại nhà Lương Tùng D.

- 01 (một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu S2 trên mép dán niêm phong có chữ ký, ghi họ tên của Trần Anh T, các thành phần tham gia niêm phong và đóng dấu giáp lai của Cơ quan CSĐT- Công an huyện Đại Từ, bên ngoài ghi có 46,424 gam Methamphetamine.

- 01 (một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu V2 trên mép dán niêm phong có chữ ký, ghi họ tên của Trần Anh T, các thành phần tham gia niêm phong và đóng dấu giáp lai của Cơ quan CSĐT- Công an huyện Đại Từ, bên ngoài ghi có 4,493 gam Methamphetamine.

- 01 (một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu V4 trên mép dán niêm phong có chữ ký, ghi họ tên của Trần Anh T, các thành phần tham gia niêm phong và đóng dấu giáp lai của Cơ quan CSĐT- Công an huyện Đại Từ, bên ngoài ghi có 1,617 gam Methamphetamine.

- 01(một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu H2 trên mép dán niêm phong có chữ ký, ghi họ tên của Trần Anh T, các thành phần tham gia niêm phong và đóng dấu giáp lai của Cơ quan CSĐT- Công an huyện Đại Từ, bên ngoài ghi có 48,543 gam Methamphetamine.

- 01 (một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu H4 trên mép dán niêm phong có chữ ký, ghi họ tên của Trần Anh T, các thành phần tham gia niêm phong và đóng dấu giáp lai của Cơ quan CSĐT- Công an huyện Đại Từ, bên ngoài ghi có 7,699 gam Methamphetamine.

- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu K, trên mép dán niêm phong có chữ ký, ghi họ tên của Chu Đức Ngụy, Nguyễn Quang Vũ và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong là các vỏ túi nilon đựng các chất nghi là ma túy thu giữ khi bắt quả tang và khám xét Trần Anh T.

chữ ký, ghi họ tên của Trần Anh T, các thành phần tham gia niêm phong và đóng dấu giáp lai của Cơ quan CSĐT- Công an huyện Đại Từ, bên trong là túi nilon và vỏ phong bì niêm phong NS2, mã số NS2A069208,T,T1.

- 01(một) phong bì niêm phong ký hiệu K4, trên mép dán niêm phong có chữ ký, ghi họ tên của Trần Anh T, các thành phần tham gia niêm phong và đóng dấu giáp lai của Cơ quan CSĐT- Công an huyện Đại Từ, bên trong là vỏ phong bì niêm phong ký hiệu H,K.

- 01 (một) phong bì niêm phong số 7759/C09(TT2) trên mép dán niêm phong có chữ ký, ghi họ tên của Đinh Thị Thơ, Nguyễn Quang Vũ và đóng dấu giáp lai của Viện khoa học hình sự -Bộ Công an, bên trong là các vỏ bao gói mẫu.

- 01(một) phong bì niêm phong ký hiệu S1, trên mép dán niêm phong có chữ ký, ghi họ tên của Trần Đức Thủy, Mai Văn Luân và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 2,544 gam Methamphetamine (là mẫu hoàn lại sau giám định).

- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu V1, trên mép dán niêm phong có chữ ký, ghi họ tên của Trần Đức Thủy, Mai Văn Luân và đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 0,600 gam Methamphetamine (là mẫu hoàn lại sau giám định).

- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu V3, trên mép dán niêm phong có chữ ký, ghi họ tên của Trần Đức Thủy, Mai Văn Luân và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 0,203 gam Methamphetamine (là mẫu hoàn lại sau giám định).

- 01(một) phong bì niêm phong ký hiệu V5, trên mép dán niêm phong có chữ ký, ghi họ tên của Trần Đức Thủy, Mai Văn Luân và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 0,240 gam Methamphetamine (là mẫu hoàn lại sau giám định).

- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu H1, trên mép dán niêm phong có chữ ký, ghi họ tên của Trần Đức Thủy, Mai Văn Luân và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 0,758 gam Methamphetamine (là mẫu hoàn lại sau giám định).

- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu H3, trên mép dán niêm phong có chữ ký, ghi họ tên của Trần Đức Thủy, Mai Văn Luân và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 0,222 gam Methamphetamine (là mẫu hoàn lại sau giám định).

- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu H5, trên mép dán niêm phong có chữ ký, ghi họ tên của Trần Đức Thủy, Mai Văn Luân và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có vỏ bao gói mẫu gửi giám định.

chữ ký, ghi họ tên của Trần Đức Thủy, Mai Văn Luân và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 1,781 gam Ketamine (là mẫu hoàn lại sau giám định).

- 01 cân màu đen ghi chữ POCKET.

- 01 chai nhựa loại 490ml, nhãn hiệu ICE+ - 01 chai nhựa nhãn hiệu “Trà xanh 00”.

- 01 chiếc tất màu hồng.

- 01 ống nhựa màu xám, loại PVC, đường kính 9cm, dài 1,2m.

(Tiền và các vật chứng trên hiện đang có tại tài khoản và kho của Cục thi hành án dân sự tỉnh Thái Nguyên theo ủy nhiệm chi số 53 ngày 17/01/2022 và biên bản về việc giao nhận vật chứng số 34 ngày 13/01/2022).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Trần Anh T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 12/2022/HS-ST

Số hiệu:12/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;