Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 114/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 114/2021/HS-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 107/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 116/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Đoàn Đức C, sinh ngày 18 tháng 12 năm 1985 tại thành phố Hải Phòng; Nơi cư trú: Thôn V, xã Q, huyện T, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đoàn Văn T1, sinh năm 1957 và con bà Đinh Thị C, sinh năm 1962; Có vợ là chị Nguyễn Thị T2, sinh năm 1988 và có 02 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 154/2012/HSST ngày 09/10/2012 của Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng và Bản án số 162/2012/HSPT ngày 11/12/ 2012 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 18 tháng cải tạo không giam giữ về tội Đánh bạc; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày từ ngày 19/5/2021 đến ngày 25/5/2021 chuyển tạm giam; có mặt.

2. Đỗ Văn H1, sinh ngày 10 tháng 12 năm 1990 tại thành phố Hải Phòng; Nơi cư trú: Thôn V, xã Q, huyện T, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Văn C, sinh năm 1960 và con bà Đoàn Thị N, sinh năm 1963; Chưa có vợ con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: - Bản án số 113/2015/HSST ngày 25/8/2015 của Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng và Bản án số 84/2015/HSPT ngày 29/12/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Đánh bạc - Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 03/QĐ-XPVPHC ngày 18/5/2021 của Uỷ ban nhân dân xã An Sơn, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi không đeo khẩu trang, thi hành xong ngày 19/5/2021; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày từ ngày 19/5/2021 đến ngày 25/5/2021 chuyển tạm giam; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đoàn Đức C và Đỗ Văn H1 là anh em họ hàng. Khoảng 21 giờ ngày 18/5/2021, Đoàn Đức C gọi điện cho Đỗ Văn H1 bàn nhau mua ma tuý là thuốc lắc và Ketamine về cùng sử dụng khi đi hát karaoke. Đỗ Văn H1 nhắn tin trên ứng dụng Messenger bảo Đoàn Đức C mua 05 viên thuốc lắc và 01 gam Ketamine. Đoàn Đức C nhắn tin cho một người tên Tuấn để hỏi mua ma túy thì được Tuấn báo giá 400.000 đồng/viên thuốc lắc và 1.800.000 đồng/gam Ketamine. Do không đủ tiền nên Đoàn Đức C nhắn tin cho Tuấn hẹn mua 04 viên thuốc lắc và 01 gam Ketamine. Tuấn hẹn Đoàn Đức C đến khu vực nhà nghỉ Thùy Dung ở xã Quảng Thanh, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng để giao dịch. Đỗ Văn H1 điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 15G1-348.16 chở Đoàn Đức C đến nhà nghỉ Thùy Dung gặp 01 nam thanh niên, người này báo giá 3.500.000 đồng gồm 04 viên thuốc lắc giá 1.600.000 đồng, 01 gam Ketamine giá 1.800.000 đồng và phí vận chuyển 100.000 đồng. Đoàn Đức C bỏ 3.000.000 đồng, Đỗ Văn H1 góp thêm 500.000 đồng đưa cho người thanh niên này, người thanh niên đưa lại cho Đoàn Đức C 01 hộp kim loại, bên trong có 04 viên thuốc lắc và 01 túi nilon chứa Ketamine. Sau đó thanh niên này lấy điện thoại của Đoàn Đức C xóa hết dữ liệu liên lạc với Tuấn rồi bỏ đi. Đoàn Đức C cất số ma túy mua được vào túi quần phía trước bên phải rồi chở Đỗ Văn H1 đi tìm quán hát. Vào khoảng 23 giờ 15 phút ngày 18/5/2021, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Thủy Nguyên kết hợp với Công an xã An Sơn làm nhiệm vụ tại thôn 5, xã An Sơn, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng phát hiện Đoàn Đức C và Đỗ Văn H1 có biểu hiện nghi vấn cất giấu trái phép chất ma túy. Tiến hành kiểm tra, lực lượng Công an thu giữ tại túi quần phía trước bên phải của Đoàn Đức C có 01 hộp kim loại hình hộp chữ nhật kích thước 7,5cm x 04cm x 02cm bên trong chứa 04 viên nén hình trụ, bề mặt hình trái tim màu da cam và 01 túi nilon màu trắng trong suốt kích thước 03cm x 2,5cm chứa tinh thể màu trắng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu bạc gắn số sim 0963.331.717 của Đoàn Đức C và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen gắn số sim 0969.266.148, 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 15G1-348.16 của Đỗ Văn H1. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Đoàn Đức C và Đỗ Văn H1 không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan. Tại bản Kết luận giám định số 335/KLGĐ ngày 24/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Các viên nén hình trái tim, màu cam có khối lượng 1,42 gam, loại MDMA và tinh thể màu trắng có khối lượng 0,53g, loại Ketamine.

Vật chứng của vụ án: 01 phong bì niêm phong số 335MT/PC09 chứa chất ma túy còn lại sau giám định và vỏ bao bì của hai mẫu vật, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu bạc đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO đã qua sử dụng.

Cáo trạng số 116/CT-VKSTN ngày 01 tháng 9 năm 2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng đã truy tố các bị cáo Đoàn Đức C, Đỗ Văn H1 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo trình bày đã thực hiện hành vi như nội dung nêu trên và đồng ý với tội danh mà Kiểm sát viên luận tội, kết tội đối với các bị cáo và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Kiểm sát viên đề nghị kết tội các bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đoàn Đức C với mức án từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù, xử phạt bị cáo Đỗ Văn H1 với mức án từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù đều về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 335MT/PC09 chứa chất ma túy còn lại sau giám định và vỏ bao bì của hai mẫu vật, tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu bạc đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO đã qua sử dụng. Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều hợp pháp.

[2] Về tội phạm mà Viện kiểm sát truy tố đối với các bị cáo: Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận ngày 18/5/2021 các bị cáo Đoàn Đức C và Đỗ Văn H1 có hành vi bàn bạc với nhau góp tiền mua và cất giấu trái phép chất ma túy là loại MDMA khối lượng 1,42 gam và Ketamine khối lượng 0,53 gam để cùng sử dụng cho bản thân. Nên hành vi của các bị cáo Đoàn Đức C và Đỗ Văn H1 đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 116/CT-VKSTN ngày 01 tháng 9 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên truy tố bị cáo như đã nêu trên và lời luận tội, kết tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng pháp luật.

[3] Tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm đã xâm phạm chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước về chất ma tuý gây mất trật tự trị an xã hội. Đây là vụ án đồng phạm, phân hóa vai trò những người đồng phạm xét thấy các bị cáo Đoàn Đức C, Đỗ Văn H1 cùng bàn bạc và thực hành tích cực nên vị trí, vai trò trong vụ án là bằng nhau. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Các bị cáo thành khẩn khai báo nên các bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo đã sử dụng ma túy và đã từng bị kết án thể hiện các bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù đối với các bị cáo bằng nhau, như vậy mức hình phạt chính mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với các bị cáo là tương đối phù hợp.

[4] Tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định hình phạt bổ sung, do các bị cáo không có tài sản, là lao động tự do nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 335MT/PC09 chứa chất ma túy còn lại sau giám định và vỏ bao bì của hai mẫu vật là vật nhà nước cấm lưu hành và liên quan đến tội phạm; Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu bạc đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO đã qua sử dụng do liên quan đến tội phạm.

[6] Trong vụ án này, xe mô tô biển kiểm soát 15G1-348.16 Đỗ Văn H1 sử dụng để đi mua ma túy, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp là anh Đỗ Duy D1, sinh năm 1994, địa chỉ thôn V, xã Q, huyện T, thành phố Hải Phòng. Anh Đỗ Duy D1 cho Đỗ Văn H1 mượn sử dụng nhưng không biết việc Đỗ Văn H1 dùng để đi mua ma túy, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại xe trên cho anh Đỗ Duy D1. Đối tượng bán trái phép chất ma túy cho Đoàn Đức C và Đỗ Văn H1, quá trình điều tra chưa xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không có cơ sở xử lý.

[7] Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Đoàn Đức C 30 (ba mươi) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 19/5/2021.

- Đỗ Văn H1 30 (ba mươi) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 19/5/2021.

Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 335MT/PC09 chứa chất ma túy còn lại sau giám định và vỏ bao bì của hai mẫu vật; Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu bạc đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO đã qua sử dụng (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/8/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng).

Về án phí áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Các bị cáo Đoàn Đức C, Đỗ Văn H1 mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 114/2021/HS-ST

Số hiệu:114/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;