Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 113/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 113/2022/HS-ST NGÀY 23/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 116/2022/HSST ngày 31 tháng 5 năm 2022, quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 114/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Bạc Cầm Y (tên gọi khác: Không) - Sinh năm: 1973; Nơi sinh: Tại tỉnh Điện Biên; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước ngày bị bắt: Bản P, xã P, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Không; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bạc Cầm B - đã chết và bà Lò Thị Đ; bị cáo có vợ là Lò Thị H (đã ly hôn năm 2016) và có 01 người con, sinh năm 2008.

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 01/4/2004, bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xử phạt 02 năm tù về tội vận chuyển trái phép chất ma túy (theo bản án hình sự sơ thẩm số 116/2004/HSST), ngày 25/9/2005 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù; bị cáo đã chấp hành xong các quyết định khác của bản án. Ngày 27/12/2012, bị cáo bị UBND tỉnh Điện Biên quyết định đưa vào cơ sở giáo dục với thời hạn 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản (theo quyết định số 1258/QĐ-UBND), ngày 17/12/2014 bị cáo chấp hành xong quyết định. Ngày 14/9/2015, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xử phạt 42 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (theo bản án hình sự sơ thẩm số 124/2015/HSST), ngày 23/4/2018 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù; bị cáo đã chấp hành xong các quyết định khác của bản án. Tính đến ngày 24/02/2022 bị cáo đương nhiên được xóa án tích và được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/02/2022, sau đó bị tạm giam cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 30 phút ngày 24/02/2022, tại khu vực bản Bản P, xã P, thành phố Đ, tổ công tác Công an xã Pá Khoang làm nhiệm vụ phát hiện Bạc Cầm Y đang ngồi một mình ở lề đường dân sinh có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Tổ công tác Y cầu kiểm tra, Bạc Cầm Y tự giác lấy trong túi quần phía trước bên trái ra 01 gói nilon màu hồng, bên trong có 02 gói nhỏ đều gói bằng nilon màu hồng: 01 gói chứa các cục Heroine có khối lượng 2,08 gam, 01 gói chứa 05 viên Methamphetamine có khối lượng 0,46 gam giao nộp cho tổ công tác. Y khai, nguồn gốc số ma túy trên là khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, Y đi bộ từ nhà đến bản Lọng Luông 1, xã Mường Phăng mua của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết ở đường với giá 900.000đ, mục đích để sử dụng.

Tại Bản kết luận giám định số 366/KL-KTHS ngày 04/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên, kết luận: Khối lượng vật chứng thu giữ gồm: 2,08 gam chất bột màu trắng ký hiệu M1; 0,46 gam các viên nén màu hồng ký hiệu M2. Mẫu vật ký hiệu M1 gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine. Mẫu vật ký hiệu M2 gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine.

Tại Bản cáo trạng số: 64/CT-VKSTPĐBP ngày 30/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Bạc Cầm Y về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và khẳng định hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 2,01 gam Heroine và 0,38 gam Methamphetamine (là vật chứng còn lại sau giám định); 03 mảnh nilon màu hồng.

Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát và lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định: Hồi 14 giờ 30 phút, ngày 24/02/2022, tại khu vực bản Bản P, xã P, thành phố Điện Biên, tỉnh Điện Biên, Bạc Cầm Y đã có hành vi cất giấu trái phép 2,08 gam Heroine và 0,46 gam Methamphetamine trên người, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[2] Về tính chất, mức độ, động cơ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân và cộng đồng cũng như nhận thức được chính sách pháp luật hình sự của nhà nước đối với những hành vi mua bán, tàng trữ ... trái phép chất ma túy nhưng để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân, bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật, cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội lớn, không những xâm phạm những quy định của nhà nước về chế độ quản lý, sử dụng các chất ma túy mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn thành phố Đ. Do vậy, cần phải áp dụng một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo đã 02 lần bị Tòa án xét xử về tội liên quan đến ma túy và một lần bị UBND quyết định đưa vào cơ sở giáo dục với thời hạn 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản. Mặc dù bị cáo đã được xóa án tích và được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính nhưng là người có nhân thân xấu nên cần cân nhắc khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Tại giai đoạn điều tra, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Từ những phân tích nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố và kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS xử phạt bị cáo từ từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù là có căn cứ, đúng pháp luật, bị cáo không bị oan.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự, bị cáo làm ruộng thu nhập không ổn định, không có tài sản có giá trị. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[8] Các vấn đề khác: Đối với người đàn ông, bị cáo khai là người bán ma túy cho các bị cáo, do không xác định được họ tên, địa chỉ của người này nên không đề cập xử lý trong vụ án.

[9] Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 2,01 gam Heroine và 0,38 gam Methamphetamine (là vật chứng còn lại sau giám định); 03 mảnh nilon màu hồng, do là vật nhà nước cấm tàng trữ và vật không có giá trị.

[10] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự;

1. Tuyên bố bị cáo Bạc Cầm Y phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Bạc Cầm Y 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 24/02/2022).

2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 2,01 gam Heroine và 0,38 gam Methamphetamine (là vật chứng còn lại sau giám định); 03 mảnh nilon màu hồng.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01/6/2022 giữa cơ quan cảnh sát điều tra, Công an thành phố Đ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 23/6/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 113/2022/HS-ST

Số hiệu:113/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;