Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 11/2022/HS-ST NGÀY 21/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 219/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 231/2021/QĐXXST-HS ngày 28/9/2021, quyết định hoãn phiên tòa số 92A/2021/HSST-QĐ ngày 28/10/2021, quyết định hoãn phiên tòa số 117/2021/HSST-QĐ ngày 26/11/2021, quyết định hoãn phiên tòa số 123/2021/HSST-QĐ ngày 24/12/2021 đối với các bị cáo:

1. BÙI XUÂN Q – sinh năm: 1994; HKTT và chỗ ở: Ái Mộ - Yên Viên – Gia Lâm – Hà Nội; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; quốc tịch: V Nam; nghề nghiệp: Tự do; con ông Bùi Văn Q và bà Nguyễn Thị Ngọc L; TATS: Theo danh chỉ bản số 696 ngày 11/11/2020 của Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp thì các bị cáo có 01 tiền án: Bản án số 53/2016/HSST ngày 305/2016 của Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, Hà Nội xử 24 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, thời hạn tù tính từ ngày 22/12/2015, án phí HSST 200.000 đồng. Ngày 22/10/2017, Q chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 09/8/2016, Q thi hành xong việc thi hành án dân sự.

Bị cáo bị bắt ngày 27/10/2020. (Có mặt).

2. NGUYỄN THẾ V – sinh năm: 1971; HKTT và chỗ ở: Hà Huy Tập – thị trấn Yên Viên – huyện Gia Lâm – thành phố Hà Nội; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; quốc tịch: V Nam; nghề nghiệp: Tự do; con ông Nguyễn Thế H (Chết) và bà Phạm Minh T; Vợ Vũ Thanh H; Có 01 con SN 2012; TATS: Theo danh chỉ bản số 80 ngày 10/4/2021 của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bắc Ninh thì bị cáo có tiền án, tiền sự:

- Tiền sự:

+ Năm 1999, Công an huyện Gia Lâm xử phạt cảnh cáo về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy + Tháng 6/2009, đi cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 2.

- Tiền án + Bản án số 83/HSST ngày 9, 16/8/1990 Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm xử phạt 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng về tội Cướp giật tài sản của công dân, án phí HSST 15.000 đồng, án phí DSST 15.000, bồi thường cho bị hại 80.000 đồng. Qua xác minh tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Gia Lâm: Hiện Không tìm thấy hồ sơ thi hành án của bản án trên của Nguyễn Thế V.

+ Bản án số 175/HSST ngày 11/5/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử 05 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/11/2004 về tội Chứa mại dâm, án phí HSST 50.000 đồng. Ngày 24/10/2007, V chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 20/4/2006, V đã nộp khoản án phí HSST 50.000 đồng.

+ Bản án số 47/2016/ HSST ngày 26/9/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xử phạt 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/3/2016 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, án phí HSST 200.000 đồng. Ngày 30/12/2007, V chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 26/9/2016, V nộp án phí HSST 200.000 đồng.

- Ngày 24/9/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xử phạt Tử hình về tội Mua bán trái phép chất ma túy tại bản án số 99/2021/HSST (bị cáo kháng cáo, bản án chưa có hiệu lực pháp luật) - Ngày 10/01/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xử phát 20 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 01/4/2021, khấu trừ cho bị cáo thời gian tạm giữ từ ngày 17/4/2019 đến ngày 26/4/2019. Phạt Nguyễn Thế V 20.000.000đ. (Bản án số 01/2022/HSST, bản án chưa có hiệu lực pháp luật).

Hiện bị can đang bị tạm giam tại Trại tạm giam – Công an tỉnh Bắc Ninh. (Có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Trần Thị Kim N - SN: 1997 HKTT: M, Đ, Quảng Ninh (Vắng mặt).

- Chị Phan Mai Trà M - SN: 1994 HKTT: L, S, Hà Nội (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16h ngày 27/10/2020, Công an phường T, Long Biên, Hà Nội kiểm tra hành chính số nhà 7 ngách *** phố Thanh Am, phường T, quận Long Biên, thành phố Hà Nội, tại thời điểm kiểm tra phát hiện trong nhà có 5 đối tượng gồm:Bùi Xuân Q, anh Nguyễn Khả D (SN: 1982; Nơi cư trú: 67H, thị trấn Y, huyện Gia Lâm, Hà Nội), chị Ngô Thị A (SN : 1996; HKTT: T, P, Hà Nam), chị Trần Thị Kim N (SN: 1997; HKTT: M, Đ, Quảng Ninh), chị Phan Mai Trà M (SN: 1994; HKTT: L, S, Hà Nội). Quá trình kiểm tra, Cơ quan Công an phát hiện tại tầng 4 của nhà trọ có 03 cóng thủy tinh, 01 bình thủy tinh chứa nước ở phần đầu gắn cóng thủy tinh và ống hút, 01 chai nhựa phía đầu lắp đục 02 lỗ nhỏ gắn ống hút, 01 ví da màu nêu bên trong có 01 túi nilong chứa tinh thể màu trắng, 01 túi nilong chứa 03 viên nén màu đỏ, 01 túi nilong chứa 06 gói giấy màu trắng và 02 gói giấy màu đen, trong mỗi gói giấy chứa chất bột màu trắng. Cơ quan công an lập biên bản thu giữ niêm phong tang vật và đưa các đối tượng về trụ sở để làm rõ.

Tang vật thu giữ:

- Thu giữ của Bùi Xuân Q gồm: 01 ví da màu nâu bên trong có các túi nilong gồm 01 túi nilong bên trong chứa tinh thể màu trắng, 01 túi nilong bên trong chứa 03 viên nén màu đỏ, 01 túi nilong bên trong chứa 06 gói giấy màu trắng và 02 gói giấy màu đen trong mỗi gói giấy chứa chất bột màu trắng, 02 bộ tẩu hút tự tạo, 01 điện thoại Iphone6 màu xám.

- Thu giữ của Trần Thị Kim N: 01 điện thoại Iphone 6 plus màu xám bên ngoài có ốp màu đen.

- Thu giữ của Phan Hoa Trà M: 01 điện thoại HUAWEI màu vàng.

Tại bản kết luận giám định số 9498/KLGĐ-PC09 ngày 05/11/2020 của phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni lông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 5,823 gam.

- 03 viên nén màu đỏ bên trong 01 túi ni lông đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng: 0,266 gam - Chất bột màu trắng bên trong 06 gói giấy màu trắng và 02 gói giấy màu đen đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng: 0,856 gam.

- 02 bộ tẩu hút tự tạo đều có dính ma túy loại Methamphetamine.

Sau khi tiếp nhận tin báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Long Biên đã tiến hành điều tra làm rõ nội dung vụ án như sau:

Đầu năm 2020, Nguyễn Viết C (SN: 1977, HKTT: Số 617N, Đức G, Long Biên, Hà Nội) và bạn gái Ngô Thị A thuê trọ tại nhà số 7 ngách **** Thanh Am để sinh sống cùng nhau. Đến tháng 6/2020, A có cho bạn là Trần Thị Kim N và Phan Hoa Trà M cùng đến nhà trọ số 7 ngách ***** Thanh Am để sống cùng. Thông qua các mối quan hệ xã hội C quen biết với Bùi Xuân Q và Nguyễn Thế V nên Q và V thường đến nhà trọ nêu trên của C chơi. Khoảng 10h ngày 27/10/2020, do Q có quan hệ tình cảm với N nên Q đến nhà trọ của A tại số 7 ngách 105/33 Thanh Am để gặp và chơi với N. Lúc này, có A, N và M ở tầng 1 nấu cơm còn C ở tầng 2 của nhà chơi với con. Đến 13h cùng ngày, V đến và đi lên tầng 3 nhà trọ của C. Tại đây, Q và C đang ngồi ở trong phòng, V lấy từ trong túi quần bên trái phía trước ra 01 túi nilong màu trắng bên trong chứa ma túy đá rồi rủ Q và C sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì V có điện thoại gọi đến. V nghe điện thoại xong rồi rủ C đi cùng có việc, C đồng ý. C đi xuống tầng 2 của nhà thay quần áo. Khoảng 2 phút sau, C đi lên tầng 3, lúc này V lấy từ trong túi quần bên trái phía trước ra 01 túi nilong màu trắng bên trong chứa nhiều gói nilong nhỏ đều chứa ma túy (dạng tinh thể, dạng viên nén màu hồng, dạng bột màu trắng) cho vào 01 chiếc ví da màu nâu của V rồi đưa đưa ví cho Q, V nói với Q “Cầm lấy hộ anh, cất đi, tý về anh lấy”. Đồng thời, V đưa cho Q 01 gói nhỏ ma túy đá để Q sử dụng rồi V và C đi ra ngoài. Q cầm chiếc ví da chứa ma túy để trên giường đệm dưới nền nhà. Một lúc sau, tại tầng 3 của căn nhà, Q cùng N và M cùng nhau sử dụng số ma túy đá V cho Q bằng hình thức hút qua bình tẩu hút tự tạo. Sử dụng xong, Q đi đến ngã 5 Yên Viên, Gia Lâm, Hà Nội đón Nguyễn Khả D là bạn xã hội đến nhà trọ nêu trên để chơi. D đến và lên tầng 3 của nhà và sử dụng hết số ma túy đá còn lại trong bình tẩu hút tự tạo nêu trên. Đến 16h cùng này, Cơ quan Công an đến kiểm tra hành chính nhà trọ. Thấy vậy, Q cầm chiếc ví da chứa ma túy của V còn D cầm 02 bình tẩu hút tự tạo cùng mang lên tầng 4 đê Q cất giấu. Sau đó, Q và D đi xuống tầng 2 thì bị Cơ quan Công an kiểm tra. Quá trình kiểm tra, Cơ quan Công an phát hiện thu giữ ví da chứa ma túy và tang vật như đã nêu trên.

Đối với bị cáo Nguyễn Thế V, quá trình điều tra bị cáo V không thừa nhận hành vi phạm tội của mình. V khai ngày 27/10/2020, V không đến nhà trọ của C tại số nhà 7 ngách 105/33 phố T, Thượng T, Long Biên, Hà Nội, V không gặp Q và cũng không đưa cho Q chiếc ví da màu nâu chứa ma túy. Căn cứ vào lời khai của bị cáo Q, lời khai của các nhân chứng C, A, N, M và các tài liệu, chứng cứ khác Cơ quan CSĐT Công an quận Long Biên đã thu thập được, thể hiện lời khai của V là không có căn cứ, quanh co, chối tội.

Cáo trạng số: 214/CT-VKS ngày 27-8 -2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố Bùi Xuân Q , Nguyễn Thế V về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ Q công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của người làm chứng phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra thấy rằng: Hành vi của các bị cáo Bùi Xuân Q , Nguyễn Thế V đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi của các bị cáo vi phạm vào điểm n khoản 2 Điều 249 của BLHS 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt:

- Đề nghị xử phạt bị cáo Q mức án từ 05 (Năm) năm đến 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù.

- Đề nghị xử phạt bị cáo V mức án từ 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng đến 06 (Sáu) năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của BLHS và Điều 106 của BLTTHS.

- Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 0,856 gam heroine, 6,089 gam Methamphetamine và 02 bộ tẩu hút tự tạo.

- Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 ví da màu nâu thu giữ của Bùi Xuân Q.

- Đề nghị cho thi hành trả lại Trần Thị Kim N: 01 điện thoại Iphone 6 plus màu xám bên ngoài có ốp màu đen, trả lại chị Phan Hoa Trà M: 01 điện thoại HUAWEI màu vàng.

Nói lời sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm Q, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật-tài liệu, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 27/10/2020, tại số nhà 7 ngách 105/33 phố Thanh Am, Thượng Thanh, Long Biên, Hà Nội, các bị cáo Nguyễn Thế V và Bùi Xuân Q có hành vi tàng trữ trái phép 0,856 gam heroine và 6,089 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng nhưng bị tổ công tác Công an phường Thượng Thanh, quận Long Biên, thành phố Hà Nội kiểm tra phát hiện bắt giữ cùng tang vật.

[3] Hành vi của các bị cáo Bùi Xuân Q , Nguyễn Thế V đã cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo đã cố ý xâm phạm đến sự độc Q quản lý của nhà nước về chất ma túy được Bộ luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, cần phải nghiêm trị đối với các bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: [4] Về tình tiết tăng nặng TNHS:

Nhân thân của bị cáo Q có 01 tiền án: Bản án số 53/2016/HSST ngày 305/2016 của Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, Hà Nội xử 24 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, ra trại ngày 22/10/2017. Tuy bị cáo đã được xóa án tích, theo luật định bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS nhưng vẫn được coi là có nhân thân xấu.

Nhân thân của bị cáo V có các tiền án, tiền sự:

Năm 1999, Công an huyện Gia Lâm xử phạt cảnh cáo về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, Tháng 6/2009, đi cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 2. 03 Tiền án: Bản án số 83/HSST ngày 9, 16/8/1990 Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm xử phạt 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng về tội Cướp giật tài sản của công dân. Bản án số 175/HSST ngày 11/5/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử 05 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/11/2004 về tội Chứa mại dâm, án phí HSST 50.000 đồng. Bản án số 47/2016/ HSST ngày 26/9/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xử phạt 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/3/2016 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, án phí HSST 200.000 đồng.

Ngày 24/9/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xử phạt Tử hình về tội Mua bán trái phép chất ma túy tại bản án số 99/2021/HSST (bị cáo kháng cáo, bản án chưa có hiệu lực pháp luật).

Ngày 10/01/2022, tại bản án số 01/2022/HSST của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xử phạt V 20 năm tù và phạt tiền 20.000.000đ (Bản án chưa có hiệu lực pháp luật).

Theo luật định bị cáo V không có tình tiết tăng nặng TNHS nhưng vẫn được coi là có nhân thân xấu.

Trong khi Đảng và Nhà nước ta đang kiên quyết đấu tranh để loại trừ tệ nạn ma túy ra khỏi đời sống xã hội thì hành vi phạm tội của các bị cáo xét về tính chất, mức độ và nhân thân các bị cáo xấu thấy cần phải xử phạt các bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Q thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Q theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra, bị cáo V không thừa nhận hành vi phạm tội, tuy nhiên, tại phiên tòa, bị cáo V thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải nên cũng xem xét là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với V theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt bổ sung:

[6] Xét các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là có căn cứ.

- Về xử lý vật chứng:

[7] - Tịch thu tiêu hủy 0,856 gam heroine, 6,089 gam Methamphetamine và 02 bộ tẩu hút tự tạo là vật nhà nước cấm lưu hành.

- Cho tịch thu, tiêu hủy 01 ví da màu nâu thu giữ của Bùi Xuân Q là tang vật của vụ án.

- Cho thi hành trả lại Trần Thị Kim N: 01 điện thoại Iphone 6 plus màu xám bên ngoài có ốp màu đen, trả lại chị Phan Hoa Trà M: 01 điện thoại HUAWEI màu vàng do không liên quan đến tội phạm.

Đại diện VKSND quận Long Biên đề nghị về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp với nhận định của HĐXX.

- Về vấn đề khác:

[8] Đối với các đối tượng Nguyễn Khả D, Trần Thị Kim N và Phan Hoa Trà M, quá trình điều tra xác định D, N, M không liên quan đến việc V đưa ma túy cho Q cất giấu. Việc D, N và M có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và kết quả xét nghiệm D, N và M dương tính với ma túy, Công an phường Thượng Thanh đã lập hồ sơ đưa các đối tượng vào trung tâm cai nghiện theo quy định.

Đối với Ngô Thị A và Nguyễn Viết C, quá trình điều tra thể hiện chị A và C không biết và không liên quan đến việc các đối tượng D, N, M, Q sử dụng ma túy tại số nhà 7 ngách 105/33 phố Thanh Am. Qua xét nghiệm A âm tính với ma túy, A không biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy của Q và V nên Cơ quan CSĐT Công an quận Long Biên không đặt vấn đề xử lý với A. Việc C chứng kiến V đưa 01 ví da chứa ma túy cho Q, C khai: C nhìn thấy V đưa ví da màu nêu bên trong có các túi nilong nghi là ma túy và sau khi chứng kiến sự việc thì C đi ra ngoài cùng V luôn, C không biết Q cất giấu ví da chứa ma túy như thế nào. Sau khi đưa V về nhà, C quay lại nhà trọ thì thấy Công an đến kiểm tra nhà trọ nên đã bỏ đi. Do vậy, Cơ quan CSĐT Công an quận Long Biên không đủ căn cứ xử lý đối với C trong vụ án này. Ngày 13/01/2021, C bị Công an quận Long Biên bắt về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy trong một vụ án khác. Ngày 10/6/2021, Tòa án nhân dân quận Long Biên đã xét xử C 12 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Hiện C đang tạm giam tại trại tạm giam số 2 Công an thành phố Hà Nội.

- Về án phí:

[9] Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo:

[10] Các bị cáo và người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Bùi Xuân Q , Nguyễn Thế V phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Bùi Xuân Q 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/10/2020.

Xử phạt: Nguyễn Thế V 05 (Năm) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/4/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 1 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 0,856 gam heroine, 6,089 gam Methamphetamine và 02 bộ tẩu hút tự tạo.

(Hiện đang lưu giữ tại Kho tang vật Công an quận Long Biên theo Phiếu nhập vật chứng ngày 17/11/2021).

- Cho tịch thu, tiêu hủy 01 ví da màu nâu thu giữ của Bùi Xuân Q.

- Trả lại Trần Thị Kim N: 01 điện thoại Iphone 6 plus màu xám bên ngoài có ốp màu đen, trả lại Phan Hoa Trà M: 01 điện thoại HUAWEI màu vàng.

(Tang vật trên hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Long Biên theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 31/8 /2021)

3. Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 bộ luật Tố tụng Hình sự. Án xử công khai sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

461
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2022/HS-ST

Số hiệu:11/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;