Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 24/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 24/2021/HSST NGÀY 18/02/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 18 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 01/2021/TLST- HS ngày 05 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2021/QĐXX-HS ngày 25 tháng 01 năm 2021 đối với các bị cáo:

Họ và tên: Trần Trung D; Giới tính: Nam; Sinh ngày 17 tháng 9 năm 1990; Nơi sinh: Cần Thơ; Nơi thường trú: số XX đường N, phường T, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Họ tên cha: Trần Văn H, sinh năm 1963; Họ tên mẹ: Huỳnh Thị L, sinh năm 1962; Anh, chị, em ruột: không có; Họ tên vợ: Trần Thị Bảo Trâm, sinh năm 1991; Con ruột: có 02 người, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2017.

Tiền án, Tiền sự: chưa;

Bị can bị tạm giữ từ ngày 21/9/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận Ninh Kiều.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Huỳnh Trần Khải Đ, sinh năm 1994. (Vắng mặt tại Tòa) Trú tại: số xx đường N, phường 2, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.

2. Trần Thị S, sinh năm 1967. (Vắng mặt tại Tòa) Trú tại: số xx đường N, phường 2, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.

- Người chứng kiến: La Thiên P, sinh năm 1996. (Vắng mặt tại Tòa) Trú tại: số xx dường P, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, vào khoảng 02 giờ 45 phút ngày 21/9/2020, lực lượng Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận Ninh Kiều kết hợp lực lượng Công an phường Tân An tuần tra đến trước số 189 đường Phan Đình Phùng, phường Tân An, quận Ninh Kiều phát hiện Trần Trung D có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên lực lượng công an tiến hành khám xét khẩn cấp, thu giữ vật chứng sau:

- 01 hộp giấy màu đen có chữ Zippo bên trong có 04 gói nilon hàn kín chứa tinh thể không màu; 01 gói nilon nẹp miệng chứa tinh thể không màu (được thu giữ trong túi quần phía trước bên trái của Dũng);

- 01 nỏ thủy tinh dùng để sử dụng ma túy; 02 đoạn ống hút hàn kín 01 đầu; 01 đầu cắt nhọn; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Huawei; 01 xe mô tô biển số 64B1- 374.34 Tại Kết luận giám định số 389/KL-PC09 (Hóa) ngày 28/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ kết luận: Tinh thể không màu trong 05 gói nilon, gửi giám định, là ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,9034 gam.

Quá trình điều tra Trần Trung D khai nhận 05 gói ma túy mà Công an thu giữ là của Dũng. Ngày 19/9/2020, bị cáo Dũng nhờ đối tượng tên Xinh mua 1.200.000 đồng ma túy, Xinh đưa bị cáo 01 gói nẹp miệng và 06 gói hàn kín; bị cáo đã sử dụng 02 gói, số ma túy còn lại cất giấu trong người để dành sử dụng. Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 21/9/2020, Dũng mượn xe mô tô biển số 64B1-374.34 của anh Huỳnh Trần Khải Đạt (bạn làm chung tại tiệm bánh mì Sài Gòn ở địa chỉ số 05 Đồng Khởi, phường Tân An) để đi mua thức ăn, khi đi bị cáo mang theo 05 gói ma túy đá cất giấu trong túi quần. Khi bị cáo điểu khiển xe mô tô biển số 64B1-374.34 đến trước số 189 đường Phan Đình Phùng, phường Tân An thì gặp người bạn tên Pháp nên dừng lại để đòi tiền Pháp thiếu, Pháp kêu bị cáo đợi để Pháp đi lấy tiền; bị cáo xuống xe đứng đợi Pháp khoảng 10 phút thì bị lực lượng công an đến kiểm tra thu giữ số ma túy còn lại của bị cáo và dụng cụ sử dụng.

Tại phiên tòa xét xử hôm nay, bị cáo Trần Trung D thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo theo đúng như cáo trạng đã công bố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ luận tội bị cáo như sau: Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều vẫn giữ quan điểm truy tố bị cáo theo bản cáo trạng đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Trung D tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” qui định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Xét bị cáo Dũng ăn năn hối hận, thành khẩn nhận tội nên áp dụng Điểm s, Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Đề nghị xử phạt bị cáo Dũng từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng, áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ cùng các vật dụng liên quan đến ma túy;

Tịch thu sung công của bị cáo 01 điện thoại di động Huawei màu xanh, nứt mặt lưng, không kiểm tra được chất lượng bên trong máy do liên quan đến việc phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: xét thấy bị cáo Trần Trung D là người đã thành niên, nhận thức được tác hại của ma túy và hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm; nhưng vì để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã mua, tàng trữ 0,9034 gam ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng cho bản thân ngoài ra không có mục đích nào khác thì bị bắt. Tại phiên toà hôm nay bị cáo Trần Trung D thừa nhận có hành vi cất giấu ma túy để sử dụng. Xét thấy hành vi của bị cáo Trần Trung D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, theo qui định của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý chất ma tuý. Với tác hại của chất ma tuý đối với sức khoẻ con người và mối nguy hại của nó đối với gia đình và xã hội. Nhà nước và toàn thể nhân dân đang có những chính sách và biện pháp phòng chống, ngăn chặn đẩy lùi tệ nạn và những tội phạm về ma tuý thì bị cáo Dũng lại tiếp tay cho tội phạm Ma tuý phát triển, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

[4] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn thực hiện với hành vi cố ý trực tiếp. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử khẳng định Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ truy tố bị cáo Trần Trung D ra trước toà về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy cần phải đưa ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Xét thấy, đề nghị của Viện kiểm sát là hợp lý nên khi löôïng hình Hoäi ñoàng xeùt xöû coù xem xeùt giaûm nheï moät phaàn traùch nhieäm hình söï cho bị cáo như bị cáo phạm tội lần đầu; nhân thân chưa có tiền án tiền sự; bị cáo đã là quân nhân xuất ngũ, đã từng là Đảng viên; bị cáo có thái độ ăn năn nhận tội thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Dũng không có tình tiết tăng nặng.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù, điều luật còn qui định hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo Trần Trung D là người nghiện ma tuý, xét bị cáo nghề nghiệp làm thuê không có thu nhập ổn định. Hội đồng xét xử miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo Dũng.

[7] Đối với người tên Xinh do chưa xác định được họ tên và địa chỉ nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập.

Đối với xe mô tô biển số 64B1-374.34, qua xác minh tài sản thuộc sở hữu của bà Trần Thị Son, bà Son cho cháu ruột là Huỳnh Trần Khải Đạt mượn sử dụng; Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản cho chủ sở hữu là hợp lý.

[8] Về vật chứng vụ án đang thu giữ xem xét như sau:

- Gói niêm phong số 389/KL-PC09 ngày 28/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ theo qui định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.

- 01 nỏ thủy tinh, 02 đoạn ống hút một đầu hàn kín, một đầu cắt nhọn xét thấy liên quan đến việc phạm tội của bị cáo nên cần tịch thu tiêu huỷ.

- 01 điện thoại di động Huawei màu xanh, nứt mặt lưng, không kiểm tra được chất lượng bên trong máy, bị cáo Dũng khai dùng cho mục đích liên lạc để tàng trữ sử dụng ma túy nên xét thấy cần tịch thu sung sông.

[9] Về án phí bị cáo Dũng phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thâm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: - Tuyên bố bị cáo Trần Trung D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Trần Trung D 01 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/9/2020. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Trần Trung D.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015;

điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu huỷ gói niêm phong số 389/KL-PC09 ngày 28/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ.

- Tịch thu tiêu huỷ 01 nỏ thủy tinh, 02 đoạn ống hút một đầu hàn kín, một đầu cắt nhọn.

- Tịch thu sung công của bị cáo Trần Trung D 01 điện thoại di động Huawei màu xanh, nứt mặt lưng, không kiểm tra được chất lượng bên trong máy.

(Theo Biên bản Về việc giao nhận vật chứng, tài sản giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Ninh Kiều và Chi cục Thi hành án quận Ninh Kiều ngày 05 tháng 01 năm 2021).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trần Trung D phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo Bản án: Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án theo qui định tại khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 24/2021/HSST

Số hiệu:24/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;