Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 111/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 111/2022/HS-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 114/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 111/2022/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên đối với bị cáo:

Họ và tên: Tòng Văn D; tên gọi khác: Không; sinh ngày 16/4/1995; tại huyện T, tỉnh Điện Biên; giới tính: Nam; nơi cư trú: Bản M, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ học vấn: Lớp 8/12; con ông Tòng Văn X, sinh năm 1975; con bà Lò Thị T, sinh năm 1976; bị cáo không có vợ, con; tiền án: 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số: 194/2020/HSST ngày 17/8/2020; tiền sự: Không; nhân thân của bị cáo: Bị cáo đã từng bị xét xử 07 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số: 194/2020/HSST ngày 17/8/2020, đến ngày 05/01/2021 về địa phương sinh sống, bị cáo chưa được xóa án tích và bị cáo chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/6/2022 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tuần Giáo; bị cáo được trích xuất áp giải và có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo có: Bà Lò Thị Khánh Hà - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 17/6/2022, Tòng Văn D đi bộ từ nhà ở bản Món, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên ra đường để đi tìm mua ma túy sử dụng. Khi D đi đến đoạn đường thuộc khu vực bản M, xã Quài T thì gặp một người đàn ông không rõ lai lịch trông giống như người nghiện ma túy. Khi gặp D hỏi người đàn ông đó có Heroine bán không, người đàn ông đó nói có. Qua trao đổi, D mua của người đàn ông đó 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa Heroine với giá 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng). Khi mua bán xong người đàn ông đó đi đâu, D không hỏi nên không biết; còn D cất giấu gói Heroine vào túi quần bên phải đang mặc và đi về nhà. Khi về đến nhà, D lấy gói Heroine ra và dùng tay cấu lấy một ít để sử dụng bằng hình thức hít. Sau khi sử dụng xong, số Heroine còn lại D gói lại và cất giấu vào trong túi quần như cũ. Đến 20 giờ 30 phút cùng ngày, D ra thị trấn Tuần Giáo, huyện Tuần Giáo bắt xe khách nhà xe Quang Tuấn, biển kiếm soát 27F-000.09, chạy tuyến Điện Biên - Hưng Yên để xuống Hưng Yên làm thuê. Khi xe khách đến khu vực bản Lạ, xã Quài Tở, huyện Tuần Giáo thì gặp tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo phối hợp với tổ công tác theo kế hoạch 1266 - Công an tỉnh Điện Biên kiểm tra xe khách, phát hiện, bắt quả tang, thu giữ của D 01 gói nghi ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản thu giữ vật chứng và đưa Tòng Văn D cùng vật chứng về Cơ quan điều tra để điều tra, làm rõ.

Tại Biên bản mở niêm phong vật chứng ngày 18/6/2022, có sự chứng kiến của bị cáo đã xác định như sau: Số chất bột màu trắng nghi Heroine được xác định khối lượng là 0,42 gam. Cơ quan cảnh sát điều tra đã trích 0,13 gam làm mẫu giám định và ra Quyết định trưng cầu giám định số: 139/QĐ-HSKTMT, ngày 21/6/2022. Tại bản Kết luận giám định số: 900/KL-KTHS ngày 28/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Tòng Văn D gửi giám định là chất Ma túy: Loại Heroine.

Tại Cáo trạng số: 96/CT-VKS-TG ngày 24 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên; đã truy tố bị cáo về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS tuyên tịch thu 01 phong bì niêm phong (bên trong có 01 gói nilon màu trắng chứa 0,29 gam Heroine, 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ gói niêm dùng để niêm phong vật chứng) để tiêu hủy. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Luận cứ bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố. Đề nghị HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS, xem xét về khối lượng, sự khoan hồng của Nhà nước đối với bị cáo để đưa ra mức án thấp hơn mức đề nghị của Kiểm sát viên đã đề nghị. Đề nghị không phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi của mình phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Ngày 18/6/2022, bị cáo mua của một người đàn ông không rõ lai lịch 01 gói Heroine được gói bằng túi nilon màu trắng nhằm mục đích sử dụng với giá 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng). Bị cáo đã lấy một ít ra sử dụng bằng hình thức hít, số ma túy còn lại chưa sử dụng có khối lượng 0,42 gam bị cáo cất giấu thì bị phát hiện và bắt quả tang. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố và Kiểm sát viên luận tội là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm những quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy; hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự trị an tại địa phương và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định, phát triển của xã hội. Vì vậy, cần xử lý nghiêm minh nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo đã từng bị xét xử 07 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số: 194/2020/HSST ngày 17/8/2020, đến ngày 05/01/2021 chấp hành xong hình phạt về địa phương sinh sống, bị cáo chưa được xóa án tích nên cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo đã từng bị xét xử 07 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số: 194/2020/HSST ngày 17/8/2020, đến ngày 05/01/2021 về địa phương sinh sống, bị cáo chưa được xóa án tích, nên bị cáo là người có nhân thân xấu. Bị cáo không có tiền sự.

Trong những năm qua, Nhà nước đã tốn nhiều sức người, sức của để phòng chống tệ nạn ma túy. Việc tuyên truyền về tác hại ma túy đã được chính quyền địa phương và các cơ quan pháp luật thực thực hiện sâu, rộng. Bản thân bị cáo cũng thừa nhận bị cáo biết được tác hại của ma túy và cũng biết được chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc phòng chống tệ nạn ma túy. Hơn nữa cũng chỉ vì nghiện ma túy nên bị cáo đã có hành vi phạm tội trộm cắp tài sản và đã được cải tạo giáo dục, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện bản thân, để có cuộc sống tốt hơn tránh xa tệ nạn xã hội, chỉ vì không làm chủ được bản thân nên sau khi ra trại bị cáo lại tái nghiện ma túy. Do đó có thể thấy bị cáo thiếu ý thức rèn luyện, coi thường pháp luật, muốn có ma túy để sử dụng nên bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật mua ma túy để sử dụng. Bởi vậy đối với hành vi của bị cáo cần có mức hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội, cũng là cơ hội để bị cáo cai nghiện ma túy.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định; bị cáo còn có thể bị phạt bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo không có khả năng thi hành; nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và tuyên mức hình phạt đối với bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị mức hình phạt là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng, nhân thân của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Xét đề nghị của người bào chữa cho bị cáo thấy: Cũng xuất phát từ việc bị cáo nghiện ma túy nên bị cáo đã có hành vi trộm cắp tài sản và bị Tòa án tuyên phạt 07 tháng tù, cho đến ngày 05/01/2021 bị cáo mới chấp hành xong hình phạt, bị cáo chưa được xóa án tích nên là người có nhân thân xấu. Bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện bản thân để trở thành người có lối sống lành mạnh, tránh xa tệ nạn xã hội mà bị cáo còn tái nghiện ma túy. Do đó HĐXX thấy đối với bị cáo cần có một mức hình phạt thật nghiêm khắc với thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo phù hợp, như vậy mới giúp bị cáo cai nghiện ma túy; sau này khi về địa phương sinh sống có cuộc sống tốt hơn và cũng thể hiện tính nghiêm minh đối với hành vi phạm tội, lan tỏa tính giáo dục pháp luật mới có tác dụng răn đe phòng ngừa chung; chính vì vậy đề nghị của người bào chữa cho bị cáo là chưa phù hợp nên HĐXX không chấp nhận.

[8] Đối với người đàn ông bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo, nhưng khi mua bị cáo không hỏi tên tuổi địa chỉ ở đâu nên không có cơ sở xác minh làm rõ, do đó tại vụ án này HĐXX không xem xét.

[9] Về vật chứng: Hội đồng xét xử thấy rằng cần căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS để xử lý vật chứng như sau: Một phong bì màu trắng các mép đều được dán kín, mặt trước ghi vật chứng còn lại vụ Tòng Văn D, vật chứng gồm: 0,29 gam Heroine là chất Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 mảnh nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì cũ màu trắng dùng để niêm phong vật chứng thu giữ của bị cáo do không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí: Cần căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn và bị cáo có đơn xin miễn án phí nên HĐXX xét thấy bị cáo đủ điều kiện được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

[11] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thấy rằng: Không có ý kiến khiếu nại các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 332; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án đối với bị cáo, tuyên xử:

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Tòng Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Tòng Văn D 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù; thời gian thi hành án phạt tù tính từ ngày 18/6/2022.

3. Vật chứng: Tịch thu 01 gói niêm phong (bên trong có 01 gói nilon màu trắng chứa 0,29 gam Heroine, 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ gói niêm phong dùng để niêm phong vật chứng) để tiêu hủy.

Đặc điểm vật chứng nói trên được ghi theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/8/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

4. Án phí: Bị cáo Tòng Văn D được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 14/9/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 111/2022/HS-ST

Số hiệu:111/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;