Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 108/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 108/2022/HS-ST NGÀY 04/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 104/2022/TL-HSST ngày 21 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 112/2022/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 02 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn Á, Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1970, tại Điện Biên; Nơi cư trú: Bản B, xã S, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá (học vấn): Không; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn X (Đã chết) và con bà: Lò Thị N (Đã chết); Vợ: Lò Thị L (Đã ly hôn); Con: Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1992, con nhỏ nhất sinh năm 2004; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 23/4/1998, bị Công an huyện Điện Biên xử phạt vi phạm hành chính về hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy, đã được xoá án tiền sự; Ngày 25/12/2006 bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xử phạt 30 tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy, đã được xoá án tích; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 08/11/2021, sau đó bị tạm giam cho đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 07/11/2021, Lò Văn Á đi nhờ xe của người không quen biết từ nhà ở bản B, xã S, huyện Đ đến bản X, xã Th, huyện Điện Biên tìm mua ma túy để sử dụng. Đến nơi, Á xuống xe, một mình đi bộ vào trong bản X, mua được 01 túi Hồng phiến (Methamphetamine) và 01 túi Heroine của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 40 tuổi, không rõ lai lịch với giá 2.200.000 đồng. Mua bán xong, người đàn ông bán ma túy đi đâu thì Á không biết, còn Á mang số ma túy về nhà, lấy Heroine ra chia thành 07 cục to nhỏ khác nhau, Á gói lại thành từng gói và cho cả 7 gói vào mảnh giấy màu trắng, cất giấu vào dưới đệm ngủ của Á. Còn gói Methamphetamine Á đếm có 119 viên, Á lấy 22 viên cho vào một chiếc lọ nhựa màu trắng có nắp đậy bằng nhựa màu trắng dài 4cm, cuốn băng dính đen bên ngoài, số còn lại để trong túi màu xanh có nếp gấp, tất cả Methamphetamine Á cho vào túi đựng kính cất giấu ở cột nhà cạnh giường ngủ của Á. Hồi 8 giờ 20 phút ngày 08/11/2021, Á đang ở nhà, định lấy Heroine ra sử dụng thì tổ công tác Công an huyện Điện Biên phối hợp với Công an xã Sam Mứn đã bắt quả tang, thu giữ của Á gói Heroine khối lượng 0,83 (không phẩy tám ba gam) ở dưới đệm giường ngủ. Hồi 10 giờ ngày 08/11/2021, Công an huyện Điện Biên đã khám xét khẩn cấp nơi ở của Á. Qua khám xét thu giữ 01 túi đựng kính ở cột nhà, bên trong có chứa 12,04 (mười hai phẩy không bốn) gam Methamphetamine.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và niêm phong vật chứng ngày 08/11/2021 đã xác định: Khối lượng toàn bộ số cục màu trắng nghi Heroine thu giữ của Lò Văn Á có tổng khối lượng là 0,83 gam; Khối lượng 119 viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp thu giữ của Lò Văn Á có khối lượng là 12,04 gam, gửi toàn bộ giám định.

Tại bản kết luận giám định số: 1241/GĐ-PC09 ngày 14/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn Á gửi giám định là ma túy loại Heroine, khối lượng vật chứng thu giữ của Á gồm: 0,83 gam chất bột màu trắng (đã gửi giám định toàn bộ). Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Lò Văn Á gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng vật chứng thu giữ của Á gồm: 12,04 gam viên nén màu hồng (đã gửi giám định toàn bộ). Heroine nằm trong danh mục chất ma túy, STT 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT 323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/201.

Tại biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định ngày 16/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên: Hoàn lại mẫu sau khi giám định là: 0,78 gam chất bột màu trắng và 09 gam chất bột màu hồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định trên của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên.

Về vật chứng của vụ án: Ngày 20/01/2021 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên đã chuyển vật chứng của vụ án sang cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Điện Biên gồm: 0,78 gam Heroine và 9,0 gam Methamphetamine còn lại sau khi giám định và 01 hộp đựng kính màu nâu đen, có khóa kéo, chiều dài 17cm, rộng 5 cm; 01 lọ nhưạ màu trắng được cuốn bên ngoài bằng băng dính màu đen, đường kính miệng 1cm, đường kính đáy 0,7cm, chiều dài 4 cm có nắp đậy bằng nhựa màu trắng.

Bản cáo trạng số: 24/CT-VKSĐB ngày 20/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị Lò Văn Á về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lò Văn Á với mức hình phạt từ 06 năm 09 tháng đến 07 năm tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,83 gam Heroine đã gửi giám định toàn bộ, hoàn lại 0,78 gam và 12,04 gam Methamphetamine, gửi giám định toàn bộ, hoàn lại 09 gam sau giám định; 01 hộp đựng kính màu nâu đen, có khóa kéo, chiều dài 17cm, rộng 5 cm; 01 lọ nhưạ màu trắng được cuốn bên ngoài bằng băng dính màu đen, đường kính miệng 1cm, đường kính đáy 0,7cm, chiều dài 4 cm có nắp đậy bằng nhựa màu trắng là vật chứng không có giá trị.

* Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và bản luận tội của Kiểm sát viên. Thực hiện lời nói sau cùng bị cáo Lò Văn Á đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa Lò Văn Á khai nhận vào hồi 08 giờ 20 phút ngày 08/11/2021, tại nhà của mình ở bản B, xã S, huyện Đ, tỉnh Điện Biên Lò Văn Á đã có hành vi cất giấu trái phép 0,83 gam Heroine và 12,04 gam Methamphetamine, mục đích để bản thân sử dụng.

Tổng khối lượng 02 chất ma túy Lò Văn Á cất giấu là 12,87 gam. Á khai nguồn gốc số Heroine và Methamphetamine này là do Á mua của 01 người đàn ông dân tộc Thái khoảng 40 tuổi, không rõ lai lịch tại bản X, xã Th, huyện Đ với số tiền 2.200.000 đồng (Hai triệu, hai trăm nghìn đồng).

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra tiến hành thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử đã đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 08 giờ 20 phút ngày 08/11/2021, tại nhà của mình ở bản B, xã S, huyện Đ, tỉnh Điện Biên Lò Văn Á đã có hành vi cất giấu trái phép 0,83 gam Heroine và 12,04 gam Methamphetamine, mục đích để bản thân sử dụng. Theo quy định tại Điều 4 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính Phủ về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự thì tổng khối lượng hai chất ma túy bị cáo tàng trữ là 12,87 gam. Như vậy, hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, bản luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm…

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

g) Heroine, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 5 gam đến dưới 30 gam

n) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm e đến điểm m khoản này”.

Lò Văn Á là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Từ những phân tích trên, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Lò Văn Á về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng của bị cáo là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, bởi nó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Vì vậy, việc truy tố, xét xử và áp dụng mức hình phạt thỏa đáng đối với bị cáo là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Trong vụ án này Lò Văn Á không có tình tiết tăng nặng nhưng có nhân thân rất xấu bởi trước đó bị cáo đã từng có 01 tiền án, 01 tiền sự nhưng đã được xóa tiền án và xóa tiền sự (Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 212 ngày 23/4/1998 của Công an huyện Điện Biên xử phạt 500.000 đồng đối với Lò Văn Á về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy và Bản án số: 39/2006/HSST ngày 25/12/2006 của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xử phạt 30 tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy); Ngày 17/9/2008 bị cáo chấp hành xong án phạt tù và trở về địa phương sinh sống và cho đến nay bị cáo đã chấp hành xong phần án phí của bản án trên. Nguyên nhân dẫn đến phạm tội là do bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật, nghiện sử dụng ma túy từ năm 2006 cho đến nay, vì muốn có ma túy để sử dụng cho bản thân nên bị cáo đã bất chấp pháp luật dấn thân vào con đường phạm tội. Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, để thể hiện sự khoan hồng của Đảng, Pháp luật của Nhà nước ta đối với người phạm tội, Hội đồng xét xử cần xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo khi lượng hình. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời đây cũng là điều kiện thuận lợi để bị cáo từ bỏ được ma túy sớm trở lại hòa nhập với gia đình và cộng đồng.

Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn với mức hình phạt từ 06 năm 09 tháng đến 07 năm tù đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Ngoài hình phạt chính, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy từ nhiều năm nay, thu nhập từ nghề làm ruộng thấp, mặt khác bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, cá nhân bị cáo thuộc hộ cận nghèo. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với bị cáo.

[4] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện Điện Biên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người ti ến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Về xử lý vật chứng: Theo quy định điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự Hội đồng xét xử cần: Tịch thu tiêu hủy 0,78 gam Heroine và 9,0 gam Methamphetamine còn lại sau khi giám định là vật chứng của vụ án và tịch thu tiêu hủy 01 hộp đựng kính màu nâu đen, có khóa kéo, chiều dài 17cm, rộng 5 cm; 01 lọ nhựa màu trắng được cuốn bên ngoài bằng băng dính màu đen, đường kính miệng 1cm, đường kính đáy 0,7cm, chiều dài 4 cm có nắp đậy bằng nhựa màu trắng là vật chứng không có giá trị.

[6] Về các vấn đề khác: Lò Văn Á khai số Heroine và Methamphetamine trên là do Á mua của 01 người đàn ông dân tộc Thái khoảng 40 tuổi, không rõ tên, địa chỉ nên cơ quan điều tra không có đủ cơ sở đề điều tra làm rõ. Vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập việc xử lý đối với người này.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm nhưng do bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn , cá nhân bị cáo thuộc hộ cận nghèo và bị cáo có đơn xin miễn án phí hình sự sơ thẩm. Vì vậy, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14, Hội đồng xét xử quyết định miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Căn cứ điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự: Tuyên bố bị cáo Lò Văn Á phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo: Lò Văn Á 06 (Sáu) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (08/11/2021).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 0,78 gam Heroine và 9,0 gam Methamphetamine còn lại sau khi giám định là vật chứng của vụ án.

- Tịch thu tiêu hủy 01 hộp đựng kính màu nâu đen, có khóa kéo, chiều dài 17cm, rộng 5 cm; 01 lọ nhựa màu trắng được cuốn bên ngoài bằng băng dính màu đen, đường kính miệng 1cm, đường kính đáy 0,7cm, chiều dài 4 cm có nắp đậy bằng nhựa màu trắng là vật chứng không có giá trị.

Vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/01/2022 giữa Công an huyện Điện Biên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn Á.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo Lò Văn Á có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (04/3/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 108/2022/HS-ST

Số hiệu:108/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;