Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 106/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ C, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 106/2022/HS-ST NGÀY 29/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 106/2022/TLST-HS, ngày 17 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 103/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn H, sinh ngày 25/9/2005 tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: Ấp N, xã P, huyện c, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Đường D18A, khu phố 6, phường T, thị xã C, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1979 và bà Nguyễn Thị Thúy K, sinh năm 1980; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 20/02/2022 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Lý Hoàng T, sinh ngày 30/4/2004 tại tỉnh Cà Mau; hộ khẩu thường trú: Ấp H, xã T, huyện Th, tỉnh Sóc Trăng; chỗ ở: Khu phố 6, phường T, thị xã C, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Khơ me; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Văn Hg, sinh năm 1980 và bà Lý Thị Sà K, sinh năm 1982; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 20/02/2022 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Phạm Văn K, sinh ngày 29/8/2005 tại tỉnh An Giang; hộ khẩu thường trú: Ấp M, xã P, huyện Ch, tỉnh An Giang; chỗ ở: Khu phố 6, phường T, thị xã C, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Hòa Hảo; con ông Phạm Văn T, sinh năm 1981 và bà Lê Thị Th, sinh năm 1985; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 20/02/2022 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Văn H:

1. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1979.

2. Bà Nguyễn Thị Thúy K, sinh năm 1980.

Cùng hộ khẩu thường trú: Ấp N, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh, là cha mẹ ruột của bị cáo; ông L, bà K đều có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Phạm Văn K:

1. Ông Phạm Văn T, sinh năm 1981.

2. Bà Lê Thị Th, sinh năm 1985.

Cùng hộ khẩu thường trú: Ấp M, xã P, huyện Ch, tỉnh An Giang; chỗ ở: Khu phố 6, phường T, thị xã C, tỉnh Bình Dương, là cha mẹ ruột của bị cáo; ông T, bà Th đều có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Lý Hoàng T:

1. Ông Lý Văn H, sinh năm 1980; Vắng mặt nhưng có đơn xin giải quyết vắng mặt.

2. Bà Lý Thị Sà K, sinh năm 1982; Có mặt.

Cùng hộ khẩu thường trú: Ấp H, xã T, huyện Th, tỉnh Sóc Trăng; đăng ký tạm trú: Khu phố 6, phường T, thị xã C, tỉnh Bình Dương, là cha mẹ ruột của bị cáo;

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn H: Ông Nguyễn D là trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Dương; vắng mặt nhưng có đơn xin giải quyết vắng mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn K, Lý Hoàng T: Ông Cao N là trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Dương; có mặt.

- Đại diện Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh: Ông Nguyễn Thanh P – Phó bí thư thị đoàn C, tỉnh Bình Dương; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 20/2/2022, tại đoạn đường D17A-N6, khu phố 6, phường Thới Hoà, thị xã C, tỉnh Bình Dương, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã C phối hợp với Công an phường Thới Hoà, thị xã C tuần tra phát hiện Phạm Văn K đang điều khiển xe mô tô biển số 68NA- 022.06 chở Lý Hoàng T ngồi sau có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe lại kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện trong lòng bàn tay phải của T có 01 gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng. T và K khai: Chất tinh thể màu trắng trong gói nylon hàn kín bị thu giữ là ma tuý đá của T và K được Nguyễn Văn H đưa tiền mua về để cùng sử dụng nên lực lượng Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T, K và tiến hành bắt khẩn cấp đối với H.

Vật chứng thu giữ:

+ 01 gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng;

+ 01 vỏ gói thuốc lá màu trắng ghi chữ HB;

+ 01 xe mô tô hiệu Daelim, biển số 68NA- 022.06; số khung: Không rõ, số máy RL8139FMBL1SE102182.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn H, Lý Hoàng T và Phạm Văn K khai: Cả ba là bạn bè với nhau và đều nghiện ma tuý đá. Khoảng 01 giờ ngày 20/02/2022, Hoà, T và K đang ăn uống tại khu vực lề đường D18, thuộc khu phố 6, phường Thới Hoà, thị xã C, tỉnh Bình Dương thì H rủ T và K đi mua ma tuý về cùng nhau sử dụng T và K đồng ý. H đưa cho K 200.000 đồng, còn T mượn điện thoại của K gọi cho đối tượng tên “Nhok Nguyên” (không rõ lai lịch) hỏi mua 200.000 đồng ma tuý thì “Nhok Nguyên” đồng ý và hẹn giao ma túy ở khu vực đường thuộc D14-N5, khu phố 6, phường Thời Hoà, thị xã C, tỉnh Bình Dương. Sau đó, K điều khiển xe mô tô biển số 68NA-022.06 chở T đến điểm hẹn gặp Nhok Nguyên mua được 01 gói ma tuý. T cầm gói ma túy trong lòng bàn tay phải rồi cùng K quay về gặp H. Khoảng 02 giờ 30 phút cùng ngày, K điều khiển xe chở T đến đoạn đường D17A-N6, khu phố 6, phường Thới Hoà thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện ma túy và bắt giữ.

Theo Kết luận giám định số 131/MT-PC09 ngày 28/02/2022, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể gửi đi giám định là ma túy có khối lượng M= 0,1657 gam, loại Methamphetamine. Mẫu vật sau khi giám định hoàn lại M= 0,1365 gam.

Đối với xe mô tô hiệu Daelim, biển số 68NA-022.06, số máy RL8139FMBL1SE102182, số khung: không rõ. Theo Kết luận giám định số 179A/SKSM ngày 02/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận xe mô tô hiệu Daelim, biển số 68NA-022.06 có số khung RP2DCB6UMEA002182, số máy RL8139FMBL1SE102182, xe do ông Nguyễn Quốc D (không rõ năm sinh; địa chỉ: tổ 10, ấp B, xã B, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang) đứng tên đăng ký, hiện ông D không có mặt tại địa phương đi đâu không rõ. Phạm Văn K khai mượn xe mô tô trên của người tên Thành (không rõ lai lịch).

Tại bản Cáo trạng số 110/CT-VKSBC ngày 17/6/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Nguyễn Văn H, Lý Hoàng T và Phạm Văn K về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn H, Lý Hoàng T và Phạm Văn K về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đồng thời đề nghị:

- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 90, Điều 91, Điều 98, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017: đề nghị xử phạt các bị cáo Nguyễn Văn H, Phạm Văn K mỗi bị cáo từ 10 tháng đến 12 tháng tù.

- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 90, Điều 91, Điều 98, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017: đề nghị xử phạt bị cáo Lý Hoàng T từ 10 tháng đến 12 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng:

+ Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư được niêm phong ghi số 131/PC09 có chữ ký hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 0,1365 gam ma túy, loại Methamphetamine; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Hòa Bình.

+ Đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Oppo của Lý Hoàng K; 01 xe mô tô hiệu Dealim, số khung RP2DCB6UMEA002182, số máy RL8139FMBL1SE102182.

Tại phần tranh luận:

- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn K, Lý Hoàng T có bài bào chữa với nội dung: Thống nhất với bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố các bị cáo Phạm Văn K, Lý Hoàng T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ngoài ra, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng cho các bị cáo Phạm Văn K, Lý Hoàng T tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đề nghị xem xét đến tình tiết khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên nhận thức pháp luật còn hạn chế để xử phạt cho các bị cáo mức án thấp nhất.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn H vắng mặt nhưng có gửi cho Hội đồng xét xử bài bào chữa với nội dung: Thống nhất với bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ngoài ra, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo H tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự nên đề nghị áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, đề nghị xem xét đến tình tiết khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên nhận thức pháp luật còn hạn chế nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án thấp nhất của khung hình phạt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Văn H, Phạm Văn K, Lý Hoàng T trình bày: Thống nhất với nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát, lời luận tội của Kiểm sát viên, bài bào chữa của người bào chữa tại phiên tòa và không bổ sung ý kiến bào chữa cho hành vi của các bị cáo.

- Các bị cáo Nguyễn Văn H, Phạm Văn K, Lý Hoàng T thừa nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả và thừa nhận hành vi của mình như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Trong phần tranh luận, các bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Vị đại diện Viện Kiểm sát, các bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an thị xã C, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thị xã C trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người đại diện hợp pháp của các bị cáo Nguyễn Văn H, Lý Hoàng T, Phạm Văn K không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về hành vi tố tụng của người bào chữa: Trong quá trình tham gia tố tụng cũng như tại phiên tòa, những người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Văn H, Lý Hoàng T, Phạm Văn K đã thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo và người đại diện hợp pháp của các bị cáo đồng ý và không có ý kiến gì về việc tham gia bào chữa của những người bào chữa. Do đó, hành vi tố tụng của người bào chữa là đúng, phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo thể hiện: Tại phiên toà, các bị cáo Nguyễn Văn H, Lý Hoàng T, Phạm Văn K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã mô tả. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 20/02/2022, tại đoạn đường D17A-N6 thuộc khu phố 6, phường T, thị xã C, tỉnh Bình Dương, lực lượng Công an kiểm tra phát hiện, bắt quả tang đối với Phạm Văn K và Lý Hoàng T do đã có hành vi tàng trữ 0,1657 gam ma túy, loại Methamphetamine ở trên tay phải của T. Khối lượng ma túy này do Nguyễn Văn H đưa 200.000 đồng cho bị cáo K và T đi mua để cùng nhau sử dụng.

Các bị cáo khai nhận đã thực hiện toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng mô tả. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập ngày 20/02/2022 (bút lục số 91), phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ.

Do đó, có đủ cơ sở để kết luận hành vi trên của các bị cáo Nguyễn Văn H, Lý Hoàng T, Phạm Văn K đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, bản Cáo trạng số 110/CT-VKSBC ngày 17/6/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Các bị cáo còn trẻ, có sức khỏe. Về nhận thức, các bị cáo hoàn toàn biết hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là bị pháp luật nghiêm cấm nhưng các bị cáo vẫn thực hiện, thể hiện bản chất xem thường pháp luật, bất chấp hậu quả xảy ra.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Ngoài ra, ma túy là một loại chất độc dược gây ra tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của người sử dụng và cũng là mầm mống lan truyền các căn bệnh xã hội như HIV... vv. Ma túy còn là nguyên nhân dẫn đến những loại tội phạm khác.

[3] Xét tính chất đồng phạm, đây là vụ án mang tính đồng phạm giản đơn. Trong đó, bị cáo H là người rủ rê bị cáo T và K mua ma túy về sử dụng và là người trực tiếp đưa tiền cho T, K đi mua ma túy về cùng sử dụng chung, do đó hình phạt mà bị cáo H phải chịu cao hơn so với các bị cáo T, K. Bị cáo T và K sau khi được H đưa cho 200.000 đồng để đi mua ma túy về sử dụng thì cả hai đều là người trực tiếp đi mua ma túy về để cùng sử dụng chung. Do đó, trong vụ án này các bị cáo T, K có vai trò ngang nhau trong việc thực hiện tội phạm nên khi quyết định hình phạt đối với bị cáo T và K là ngang nhau.

[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt gồm: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo Nguyễn Văn H, Lý Hoàng T, Phạm Văn K thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo T là người dân tộc thiểu số nên nhận thức pháp luật hạn chế nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Xét thấy, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với các bị cáo Nguyễn Văn H là phù hợp và tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của các bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Tuy nhiên, mức hình phạt mà Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với các bị cáo T, K là chưa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không chấp nhận.

[7] Xét ý kiến của người bào chữa cho các bị cáo H, T, K là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Riêng ý kiến của người bào chữa cho bị cáo H về việc đề nghị áp dụng cho bị cáo H tình tiết bị cáo có nhân thân tốt nên đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự là chưa phù hợp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[8] Tại thời điểm phạm tội các bị cáo là người dưới 18 tuổi nên cần áp dụng quy định tại các Điều 91, Điều 98, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để xem xét quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Đối với 01 bì thư được niêm phong ghi số 131/PC09 có chữ ký hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa M= 0,1365 gam ma túy, loại Methamphetamine. Xét thấy, đây là vật chứng cấm tàng trữ, cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 của của Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo của Lý Hoàng K. Xét thấy, đây là công cụ bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Đối với 01 (một) vỏ gói thuốc lá hiệu Hòa Bình. Xét, đây là vật chứng không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 và điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Dealim, số khung RP2DCB6UMEA002182, số máy RL8139FMBL1SE102182: Theo Kết luận giám định số 179A/SKSM ngày 02/3/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Xe do ông Nguyễn Quốc D (không rõ năm sinh); địa chỉ: Tổ 10, ấp BT, xã BS, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang đứng tên chủ sở hữu. Quá trình điều tra xác minh thể hiện, hiện nay ông D không có mặt tại địa phương, đi đâu không rõ. Bị cáo Phạm Văn K mượn xe của người đàn ông tên Thành (không rõ lai lịch) để đi mua ma túy về sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã C đã đăng trên báo Tuổi trẻ 03 số liên tiếp để tìm chủ sở hữu hợp pháp của xe mô tô trên, tuy nhiên đến nay không có kết quả. Xét đây là phương tiện các bị cáo T, K dùng để đi mua ma túy về sử dụng nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với người đàn ông tên “Nhok Nguyên” đã bán ma túy cho các bị cáo: Quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra đang tiến hành điều tra, khi xác định được sẽ xử lý sau.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn H, Lý Hoàng T, Phạm Văn K phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về trách nhiệm hình sự và hình phạt:

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 91, Điều 98, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với các bị cáo Nguyễn Văn H, Phạm Văn K.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/02/2022.

+ Xử phạt bị cáo Phạm Văn K 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/02/2022.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017); điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 91, Điều 98, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Lý Hoàng T:

+ Xử phạt bị cáo Lý Hoàng T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/02/2022.

3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tuyên:

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước:

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo (đã qua sử dụng, bị trầy xước cong vênh, không kiểm tra được Model, số IMEI, tại thời điểm giao nhận máy không khởi động được);

+ 01 (một) xe mô tô hiệu Dealim, số khung RP2DCB6UMEA002182, số máy RL8139FMBL1SE102182 (xe không bình ắc quy, không gương, không khóa, không bửng, xe cũ nát, tại thời điểm giao nhận máy không khởi động được).

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 bì thư được niêm phong ghi số 131/PC09 có chữ ký hình dấu đỏ, bên trong có chứa M= 0,1365 gam (theo Kết luận giám định số 131/MT-PC09 ngày 28/02/2022);

+ 01 Vỏ thuốc lá màu trắng ghi chữ HB;

(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng ngày 27/6/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã C và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã C).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 và Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Nguyễn Văn H, Lý Hoàng T, Phạm Văn K mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Nguyễn Văn H, Lý Hoàng T, Phạm Văn K, người đại diện hợp pháp của các bị cáo Nguyễn Văn H, Phạm Văn K và người bào chữa cho các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Lý Hoàng T (ông Lý Văn Hoàng) vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 106/2022/HS-ST

Số hiệu:106/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;