Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 106/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 106/2021/HS-ST NGÀY 08/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 173/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 166/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 9 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Trần Văn N, sinh năm 2001, tại Long An; nơi thường trú: Ấp B, xã T, huyện T, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 9/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ và bà Nguyễn Thị L; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Năm 2020, bị Công an xã Tân Ninh, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An xử phạt số tiền 750.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 17/QĐ-XPHC ngày 06/3/2020; xử phạt số tiền 1.000.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 26/QĐ-XPHC ngày 04/5/2020.

Bị bắt tạm giam từ ngày 13/5/2021; có mặt.

2. Nguyễn Văn T (tên gọi khác: Nguyễn Văn T), sinh năm 1988, tại Thanh Hóa; nơi thường trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 4/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Q và bà Nguyễn Thị N; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2014, bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 06 tháng 27 ngày tù về tội Gây rối trật tự công cộng theo Bản án sơ thẩm số 464/2014/HSST ngày 11/12/2014; bị bắt tạm giam từ ngày 13/5/2021; (có mặt) 3. Lý Hoài P, sinh năm 2001, tại Cần Thơ; nơi thường trú: Ấp T, xã T, huyện T, Thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 8/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Lê Thái C và bà Lý Thị Anh T; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 13/5/2021; (có mặt) 4. Dư Thái Đ, sinh năm 1998, tại Hà Tĩnh; nơi thường trú: Thôn T, xã Đ, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 00/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dư Thái Q và bà Nguyễn Thị T; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 13/5/2021; (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1989; nơi cư trú: Ấp R, xã H, huyện C, tỉnh Cà Mau. (vắng mặt)

2. Bà Dư Thị H, sinh năm 1983; nơi cư trú: khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn N, Nguyễn Văn T, Dư Thái Đ và Lý Hoài P có mối quan hệ là bạn với nhau. N, T, Đ và P đều là đối tượng nghiện ma túy, loại Methamphetamine. T và P ở chung phòng số 18, N ở phòng số 17 khu nhà trọ N thuộc khu phố P, phường T, thị xã T, Bình Dương; Đ ở nhà trọ bà H thuộc khu phố P, phường T, thị xã T, Bình Dương.

Khoảng 23 giờ ngày 12/5/2020, T và P đi qua phòng trọ số 17 của N để chơi. Tại đây, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên N rủ T và P hùn số tiền 200.000 đồng để cùng mua ma túy đá về sử dụng chung nhưng do không có tiền nên T, P và N thống nhất là sẽ liên hệ với đối tượng tên Khang (không rõ nhân thân - đã bán ma túy cho N và T nhiều lần trước đó) để mua ma túy thiếu sẽ trả tiền sau. Lúc này, N mượn điện thoại di động của P vào mạng xã hội Zalo gọi cho Khang để hỏi mua ma túy nhưng Khang không bắt máy. Sau đó, T tiếp tục nhắn tin qua mạng xã hội Zalo cho Khang hỏi mua ma túy đá với số tiền 200.000 đồng sẽ trả tiền sau thì Khang đồng ý, do lúc này N, T và P không có phương tiện để đi mua ma túy nên T kêu Khang gọi điện thoại cho Đ nhờ Đ đến gặp Khang nhận ma túy rồi mang đến giao cho T thì Khang đồng ý. Sau đó, Khang sử dụng tài khoản mạng xã hội Zalo gọi cho Đ đến khu vực gần chợ Phước An thuộc phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương để nhận ma túy dùm cho T thì Đ đồng ý, đồng thời Đ gọi điện thoại lại cho T để xác nhận việc T nhờ Đ đi lấy ma túy dùm. Sau đó, Đ điều khiển xe mô tô biển số 69E1-009.12 đi từ nhà trọ (không rõ tên) tại phường T, thị xã T đến trước cổng chợ Phước An gặp Khang, Khang đưa cho Đ 01 gói nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất ma túy đá, bên ngoài có dán băng keo đen, Đ nhận 01 gói nylon chứa chất ma túy này cầm bằng tay trái rồi điều khiển xe mô tô biển số 69E1-009.12 đến trước cổng khu nhà trọ Nguyễn Văn Định. Do nhà trọ khóa cổng nên Đ dừng xe bên ngoài rồi dùng điện thoại gọi T, N và P ra lấy ma túy. Trong lúc Đ đang đứng đợi thì lực lượng tuần tra Công an phường Thái Hòa tiến hành làm nhiệm vụ tuần tra thấy Đ có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, phát hiện Đ đang cầm trên tay trái 01 gói nylon miệng kéo dính được dán băng keo đen bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, nghi là ma túy nên tiến hành niêm phong và thu giữ, đồng thời đưa Đ về trụ sở Công an phường Thái Hòa lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ đồ vật gồm:

- 01 gói nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng;

- 01 xe mô tô biển số 69E1-009.12;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S plus màu vàng;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6;

Sau đó, Công an phường Thái Hòa tiến hành bàn giao Đ cùng hồ sơ, vật chứng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền.

Quá trình làm việc tại Cơ quan điều tra, Đ khai nhận hành vi đi lấy ma túy từ đối tượng tên Khang giúp cho T, N và P. Sau đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiến hành khám xét khẩn cấp phòng số 17, 18 khu nhà trọ N thuộc khu phố P, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương và đưa Trần Văn N, Nguyễn Văn T và Lý Hoài P về trụ sở làm việc. Qua làm việc, N, T và P khai nhận hành vi thỏa thuận hùn tiền mua ma túy và nhờ Đ đi lấy ma túy để cùng sử dụng chung.

Tại Bản kết luận giám định số 248/MT-PC09 ngày 18/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon miệng kéo dính được dán băng keo đen, gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1437 gam, loại Methamphetamine.

Đối với xe mô tô biển số 69E1-009.12, qua xác minh, xác định do ông Nguyễn Văn A đứng tên đăng ký chủ sở hữu, quá trình sử dụng đến khoảng đầu năm 2021, ông A đã bán xe mô tô này lại cho bà Dư Thị H với số tiền 9.000.000 đồng nhưng chưa làm thủ tục sang tên chủ sở hữu theo quy định. Bà H là cô của bị can Dư Thái Đ, quá trình sử dụng xe mô tô biển số 69E1-009.12 bà H có cho Đ mượn để đi làm, việc Đ sử dụng xe mô tô này để đi mua ma túy thì bà H hoàn toàn không biết. Do vậy, ngày 19/8/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên ban hành Quyết định xử lý vật chứng số 89, trả lại xe mô tô biển số 69E1-009.12 cho bà Dư Thị H.

Tại bản Cáo trạng số 182/CT-VKSTU ngày 07 tháng 9 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã truy tố các bị cáo Trần Văn N, Nguyễn Văn T, Lý Hoài P, Dư Thái Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Trần Văn N mức hình phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Bị cáo Nguyễn Văn T mức hình phạt từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Bị cáo Lý Hoài P mức hình phạt từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.

Bị cáo Dư Thái Đ mức hình phạt từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.

Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu sung quỹ nhà nước 02 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus; tịch thu tiêu hủy: 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế, 01 bì thư niêm phong ký hiệu 248/PC09, có dấu vân tay người bị bắt Dư Thái Đ, người chứng kiến Nguyễn Minh Hiếu, dấu đỏ của Công an phường Thái Hòa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương và dấu đỏ niêm phong của Phòng KTHS Công an tỉnh Bình Dương.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Các bị cáo không có ý kiến gì trong phần tranh luận. Trong phần lời nói sau cùng, các bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai trái và chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về việc tham gia phiên tòa của những người tham gia tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt. Quá trình điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không mâu thuẫn với lời khai của các bị cáo và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát và các bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản niêm phong, kết luận giám định cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Ngày 12/5/2021, Trần Văn N rủ Nguyễn Văn T, Lý Hoài P cùng hùn số tiền 200.000 đồng để mua ma túy và nhờ Dư Thái Đ gặp đối tượng tên Khang nhận 0,1437 gam ma túy, loại Methamphetamine giao lại cho N, T, P tại khu nhà trọ N thuộc khu phố P, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã vi phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, mà còn gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người, là nguyên nhân dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật khác, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình trật tự trị an xã hội ở địa phương. Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Do đó, hành vi mà các bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố các bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Vụ án mang tính chất đồng phạm giản đơn cùng nhau thực hiện tội phạm, trong đó bị cáo Trần Văn N có vai trò cao nhất, là người rủ rê các bị cáo Nguyễn Văn T, Lý Hoài P cùng hùn tiền để mua ma túy sử dụng. Bị cáo Dư Thái Đ là người giúp sức nhận ma túy từ đối tượng tên Khang để giao lại cho các bị cáo N, T, P.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của các bị cáo, nhận thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục đối các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Xét thấy, các bị cáo không có tiền án, tiền sự, thực hiện tội phạm mang tính đồng phạm giản đơn, lượng ma túy tàng trữ không lớn (khối lượng 0,1437 gam, loại Methamphetamine). Vì vậy, đề nghị của Kiểm sát viên về mức hình phạt đối với các bị cáo tại phiên tòa là chưa phù hợp nên Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt thấp hơn đối với các bị cáo.

[7] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Đối vơi 01 điện thoại hiệu Iphone 6 Plus của Dư Thái Đ và 01 điện thoại hiệu Iphone 6 Plus của Lý Hoài P là công cụ thực hiện hành vi phạm tội cần tịch thu sung quỹ nhà nước. Đối với 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế không có giá trị sử dụng, 01 bì thư niêm phong ký hiệu 248/PC09, có dấu vân tay người bị bắt Dư Thái Đ, người chứng kiến Nguyễn Minh H, dấu đỏ của Công an phường Thái Hòa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương và dấu đỏ niêm phong của Phòng KTHS Công an tỉnh Bình Dương chứa ma túy là chất cấm cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Trần Văn N, Nguyễn Văn T, Lý Hoài P, Dư Thái Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Trần Văn N 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/5/2021.

Bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/5/2021.

Bị cáo Lý Hoài P 01 (một) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/5/2021.

Bị cáo Dư Thái Đ 01 (một) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/5/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu sung quỹ nhà nước 02 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus;

Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế, 01 bì thư niêm phong ký hiệu 248/PC09, có dấu vân tay người bị bắt Dư Thái Đ, người chứng kiến Nguyễn Minh H, dấu đỏ của Công an phường Thái Hòa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương và dấu đỏ niêm phong của Phòng KTHS Công an tỉnh Bình Dương.

(Thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/10/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

4. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Trần Văn N, Nguyễn Văn T, Lý Hoài P, Dư Thái Đ mỗi bị cáo phải chịu số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kê tư ngay tuyên an . Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 106/2021/HS-ST

Số hiệu:106/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;