Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 105/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 105/2021/HS-ST NGÀY 07/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 07 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 77/2021/HSST, ngày 14 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Minh P; tên gọi khác: Khang; giới tính: Nam; Sinh ngày 02/10/1986 tại tỉnh Bình Thuận; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: khu phố 1, thị trấn C, huyện P, tỉnh Bình Thuận; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 5/12; Cha: Lê Văn T, sinh năm 1965 và Mẹ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1970, hiện ở: khu phố 1, thị trấn C, huyện P, tỉnh Bình Thuận; Anh, chị, em ruột: có 03 người, lớn nhất sinh năm 1991, nhỏ nhất sinh năm 1994; Vợ: Lê Thị H, sinh năm 1988, hiện ở: khu phố M, thị trấn C, huyện P, tỉnh Bình Thuận (đã ly hôn); Con: có 02 người, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2010;

Tiền án: 01 tiền án. Ngày 12/10/2018 bị Tòa án nhân dân huyện P xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại bản án số 75/2018/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/8/2019.

Tiền sự: không;

Hoạt động nhân thân của bị can: Ngày 05/8/2015 bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, chấp hành xong ngày 19/5/2017 Bị cáo Lê Minh P bị bắt từ ngày 20/5/2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện P. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 40 phút ngày 20/5/2021 Công an huyện P phối hợp với Công an thị trấn C và Đồn biên phòng H tuần tra đến khu vực trước Quán lẩu 46 trên đường Phan Đình Phùng, thuộc khu phố 3, thị trấn C phát hiện bắt quả tang Lê Minh P (tên gọi khác là Khang), sinh năm 1986, trú tại: khu phố 1, thị trấn C, huyện P có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trên mặt đường ngay nơi p đang đứng 01 gói nylon không màu được hàn kín, bên trong quấn dây thun màu vàng thành hình dấu cộng, kích thước 02 x 02cm bên trong có chứa chất rắn dạn nén màu trắng; Thu giữ bên hong trái ngay vị trí lưng quần P đang mặc 01 gói giấy vệ sinh vò thành cục, bên trong có 01 gói nylon không màu được hàn kín bên ngoài quấn dây thun màu vàng thành hình dấu cộng, kích thước 02 x 02cm bên trong có chứa chất rắn dạng nén màu trắng và 01 gói nylon không màu được hàn kín, kích thước 01 x 2,5cm, bên trong có chưa chất tinh thể màu trắng, P khai nhận chất rắn bên trong 02 gói nylon, có kích thước 02x02 là heroin và chất tinh thể màu trắng bên trong gói nylon kích thước 01 x 2,5cm là ma túy đá p cất giấu để sử dụng. Thu giữ trong túi quần phía trước bên phải P đang mặc 01 bơm kim tiêm chưa sử dụng; Thu giữ của P 01 xe mô tô hiệu Honda loại Winer X màu vàng đen, biển số 86B1-512.64; Thu giữ của P 01 điện thoại di động hiệu Noka màu xanh và số tiền 865.000đồng.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Minh P lúc 23 giờ 30 phút ngày 20/5/2021 tại phòng số 05 nhà trọ Minh Thư thuộc khu phố 1, thị trấn C thu giữ tại khu vực bếp 01 hộp nhựa có nắp đậy bên trong có 04 đoạn ống nhựa được hàn kín hai đầu (gồm có 02 đoạn màu trắng kích thước 01x02cm, 01 đoạn màu xanh kích thước 01 x02cm và 01 đoạn màu xanh kích thước 01x1,5cm), bên trong đều có chứa chất rắn dạng nén, P khai nhận là Heroin. Thu giữ của Lê Minh P 03 bơm kim tiêm đã qua sử dụng; 01 kéo kim loại dài 11cm; 02 nỏ thủy tinh; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 vỏ bình gas mini; thu giữ dưới tủ quần áo 01 dao tự chế (đao) bằng kim loại.

Mầu vật thu giữ của Lê Minh P: 02 gói nylon không màu kích thước 02x02cm bên trong có chứa rắn dạng nén màu trắng niêm phong trong phong bì ký hiệu số 01 gửi giám định được định danh là M1; 01 gói nylon không màu được hàn kín kích thước 01x2,5cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng niêm phong trong phong bì ký hiệu số 01 gửi giám định được định danh là M2; 04 đoạn ống nhựa được hàn kín hai đầu (gồm có 02 đoạn màu trắng kích thước 01x02cm, 01 đoạn màu xanh kích thước 01x02cm và 01 đoạn màu xanh kích thước 01x155cm), bên trong đều có chứa chất rắn dạng nén được niêm phong trong phong bì ký hiệu số 04 gửi giám định được định danh là M3.

Tại bản kết luận giám định số 632/KLGĐ-PC09 ngày 28/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

- Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 1,8397gam, là Heroine;

- Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 0,2031gam, là Methamphetamine.

- Mẫu M3 gửi giám định có khối lượng 0,2921gam, là Heroine;

Lê Minh P khai nhận: Vào buổi trưa ngày 19/5/2021 P đi đến khu vực chợ Hòa Đa thuộc xã Phan Rí Thành, huyện Bắc Bình mua của 01 người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) được 05 tép heroin với giá 300.000 đồng, P đem số heroin đã mua được về chỗ ở tại phòng số 05 nhà trọ Minh Thư thuộc khu phố 1, thị trấn C sử dụng hết 01 tép, còn lại 04 tép P cất trong hộp nhựa để ở bếp.

Đến khoảng 23 giờ ngày 19/5/2021 Lê Minh P đón xe khách vào thành phố Hồ Chí Minh tìm mua ma túy đem về sử dụng. Đến khoảng 07 giờ ngày 20/5/2021 P đi đến khu vực thuộc Quận 4 - thành phố Hồ Chí Minh mua của một người thanh niên chạy xe ôm (không rõ nhân thân, lai lịch) được số heroin và số ma túy đá (methamphetamine) với giá 1.600.000 đồng (trong đó heroine mua với giá 1.450.000 đồng, ma túy đá mua với giá 150.000 đồng). Sau đó, P bắt xe khách về lại thị trấn C vào lúc 21 giờ 20 phút ngày 20/5/2021 rồi đi đến nhà em gái của P lấy xe mô tô biển số 86B1-512.64 điều khiển chạy về chỗ ở tại phòng số 05 nhà trọ Minh Thư thuộc khu phố 1, thị trấn C. Khi P đi đến trước quán lẩu 46 trên đường Phan Đình Phùng thuộc khu phố 3 - thị trấn C thì bị lực lượng Công an tuần tra, kiểm tra phát hiện bắt quả tang P tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P: vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố theo Cáo trạng số 100/CT-VKS-TP ngày 13/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lê Minh P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Áp dụng: Điểm a, i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Tuyên phạt bị cáo từ 15 đến 21 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt.

Đối với người đàn ông ở khu vực chợ Hòa Đa thuộc xã R, huyện B và người thanh niên ở khu vực Quận 4, thành phố Hồ Chí Minh đã bán ma túy cho bị cáo P, do chưa rõ nhân thân lai lịch nên tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Về xử lý vật chứng: Đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện P: số tiền 865.000 đồng, theo Biên lai thu tiền số 0002868 ngày 21/6/2021; Chuyển vào kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện P: 02 gói nylon không màu kích thước 02x02cm đã cắt lấy mẫu và 1,7565gam mẫu M1 còn lại sau giám định, 01 gói nylon kích thước 012,5cm đã cắt lấy mẫu và 0,1756gam mẫu M2 còn lại sau giám định cùng được niêm phong trong phong bì số 632/1; 04 đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu (gồm có 02 đoạn màu trắng kích thước 01x02cm, 01 đoạn màu xanh kích thước 01x02cm và 01 đoạn màu xanh kích thước 01x1,5cm) và 0,2307gam mẫu M3 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 632/2; 01 gói giấy vệ sinh đã vo thành cục và 01 bơm kim tiêm chưa sử dụng; 01 hộp nhựa có nắp đậy; 03 bơm kim tiêm đã qua sử dụng; 01 kéo kim loại dài 11cm; 02 nõ thủy tinh; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 vỏ bình gas mini.

Ngày 17/6/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện P có Quyết định xử lý vật chứng số 39 và số 40 trả lại cho ông Lê Văn T (cha ruột của Lê Minh P) 01 xe mô tô hiệu Honda loại Winer X màu vàng đen, biển số 86B1-512.64 do xe thuộc sở hữu của ông T và ông T không biết P sử dụng vào việc phạm tội; trả lại cho Lê Minh P 01 điện thoại hiệu Nokia màu xanh; chuyển 01 dao tự chế (đao) bằng kim loại đến Đội cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội - Công an huyện P để xử lý theo quy định.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện P: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo P không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Lê Minh P thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung bản Cáo trạng số 100/CT- VKS-TP, ngày 13/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P đã truy tố. Cụ thể bị cáo P khai nhận: Vào buổi trưa ngày 19/5/2021 bị cáo đi đến khu vực chợ Hòa Đa thuộc xã R, huyện B mua của 01 người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) được 05 tép heroin với giá 300.000 đồng. Bị cáo đem số heroin đã mua được về chỗ ở tại phòng số 05 nhà trọ Minh Thư thuộc khu phố 1, thị trấn C sử dụng hết 01 tép, còn lại 04 tép bị cáo cất trong hộp nhựa để ở bếp.

Đến khoảng 23 giờ ngày 19/5/2021 bị cáo đón xe khách vào thành phố Hồ Chí Minh tìm mua ma túy đem về sử dụng. Đến khoảng 07 giờ ngày 20/5/2021 bị cáo đi đến khu vực thuộc Quận 4 - thành phố Hồ Chí Minh mua của một người thanh niên chạy xe ôm (không rõ nhân thân, lai lịch) được số heroin và số ma túy đá (methamphetamine) với giá 1.600.000 đồng (trong đó heroine mua với giá 1.450.000 đồng, ma túy đá mua với giá 150.000 đồng). Sau đó, bị cáo bắt xe khách về lại thị trấn C vào lúc 21 giờ 20 phút ngày 20/5/2021 rồi đi đến nhà em gái của bị cáo lấy xe mô tô biển số 86B1-512.64 điều khiển chạy về chỗ ở tại phòng số 05 nhà trọ Minh Thư thuộc khu phố 1, thị trấn C. Khi bị cáo đi đến trước quán lẩu 46 trên đường Phan Đình Phùng thuộc khu phố 3 - thị trấn C thì bị lực lượng công an tuần tra, kiểm tra phát hiện bắt quả tang bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy.

Lời khai nhận của bị cáo P phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, biên bản thu giữ các tang vật chứng và kết quả giám định chất ma túy và heroin, đủ chứng cứ xác định bị cáo đã tàng trữ 2,1318gam Heroin và 0,2031gam Methamphetamine (tổng khối lượng là 2,3349gam) để sử dụng thì bị bắt quả tang.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Đây là vụ án “Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do bị cáo Lê Minh P có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích lại tiếp tục tàng trữ 2,1318gam Heroin và 0,2031gam Methamphetamine (tổng khối lượng là 2,3349gam) để sử dụng đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a, điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Vì vậy, Cáo trạng số 100/CT-VKS-TP ngày 13/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố bị cáo Lê Minh P về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại theo điểm a, i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo là công dân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật hình sự và gây nguy hiểm cho xã hội; ma túy là chất rất độc hại đối với con người; nó vừa là một trong các tác nhân gây ra những căn bệnh nguy hiểm, vừa là một trong những nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác, hiện trên địa bàn huyện tệ nạn ma túy diễn ra ngày một nhiều và gia tăng đến mức báo động; bị cáo ý thức rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn cất giấu để sử dụng, bị cáo có nhân thân không tốt nên cần xử lý bị cáo nghiêm minh trước pháp luật, vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định đủ để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên cũng cần xem xét giảm nhẹ 01 phần hình phạt cho bị cáo.

Đối với người đàn ông ở khu vực chợ Hòa Đa thuộc xã R, huyện B và người thanh niên ở khu vực Quận 4, thành phố Hồ Chí Minh đã bán ma túy cho bị cáo, do chưa rõ nhân thân lai lịch nên tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[5] Về xử lý vật chứng:

2 gói nylon không màu kích thước 02x02cm đã cắt lấy mẫu và 1,7565gam mẫu M1 còn lại sau giám định, 01 gói nylon kích thước 01 x2,5cm đã cắt lấy mẫu và 0,1756gam mẫu M2 còn lại sau giám định cùng được niêm phong trong phong bì số 632/1; 04 đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu (gồm có 02 đoạn màu trắng kích thước 01 x02cm, 01 đoạn màu xanh kích thước 01x02cm và 01 đoạn màu xanh kích thước 01x155cm) và 0,2307gam mẫu M3 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 632/2; 01 gói giấy vệ sinh đã vo thành cục và 01 bơm kim tiêm chưa sử dụng; 01 hộp nhựa có nắp đậy; 03 bơm kim tiêm đã qua sử dụng; 01 kéo kim loại dài 11 cm; 02 nỏ thủy tinh; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 vỏ bình gas mini. Đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 865.000 đồng thu giữ của bị cáo, đây là tài sản của bị cáo, không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo nhưng phải tiếp tục tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

Ngày 17/6/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện p có Quyết định xử lý vật chứng số 39 và số 40 trả lại cho ông Lê Văn T (cha ruột của bị cáo Lê Minh P) 01 xe mô tô hiệu Honda loại Winer X màu vàng đen, biển số 86B1-512.64 do xe thuộc sở hữu của ông T và ông T không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội; Trả lại cho bị cáo P 01 điện thoại hiệu Nokia màu xanh; Chuyển 01 dao tụ chế (đao) bằng kim loại đến Đội cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội - Công an huyện P để xử lý theo quy định nên không xem xét nữa.

[6] Về ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện P:

Hội đồng xét xử thống nhất quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, về áp dụng pháp luật, mức hình phạt là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên ghi nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo Lê Minh P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Bị cáo Lê Minh P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm a, i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: Bị cáo Lê Minh P 21 (hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (ngày 20/5/2021).

[2] Biện pháp tư pháp: Áp dụng c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy: 02 gói nylon không màu kích thước 02x02cm đã cắt lấy mẫu và 1,7565gam mẫu M1 còn lại sau giám định, 01 gói nylon kích thước 01x2,5cm đã cắt lấy mẫu và 0,1756gam mẫu M2 còn lại sau giám định cùng được niêm phong trong phong bì số 632/1; 04 đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu (gồm có 02 đoạn màu trắng kích thước 01x02cm, 01 đoạn màu xanh kích thước 01x02cm và 01 đoạn màu xanh kích thước 01x1,5cm) và 0,2307gam mẫu M3 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 632/2; 01 gói giấy vệ sinh đã vo thành cục và 01 bơm kim tiêm chưa sử dụng; 01 hộp nhựa có nắp đậy; 03 bơm kim tiêm đã qua sử dụng; 01 kéo kim loại dài 11cm; 02 nỏ thủy tinh; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 vỏ bình gas mini.

Trả lại cho bị cáo Lê Minh p số tiền 865.000đ(tám trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0002868 ngày 21/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P nhưng phải tiếp tục tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Minh P phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 105/2021/HS-ST

Số hiệu:105/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;