Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 05/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHƠN TRẠCH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 05/2022/HS-ST NGÀY 10/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 01 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 223/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 252/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Thanh P (tên gọi khác: B), sinh năm 1989 tại tỉnh Đồng Nai; Nơi thường trú: ấp T, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: A, sinh năm 1954 và bà B, sinh năm 1959; Có vợ là C (sinh năm 1990) và 01 con (sinh năm 2017); Tiền án: Ngày 30/9/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai tuyên xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội đánh bạc theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999 (tại Bản án số 181/2014/HSST ngày 30/9/2014). Đến ngày 30/9/2015, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù. Đến ngày 01/11/2021 mới chấp hành xong bản án; Tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/5/2021 (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Nguyễn Thị Kim H (tên gọi khác: N), sinh năm 1985 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi thường trú: số 599/15C, tổ 21, khu phố 5, phường T, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Lớp 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông D, sinh năm 1961 (đã chết) và bà E, sinh năm 1965; Bị cáo có chồng là F (sinh năm 1969) và có 01 con (sinh năm 2004); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/5/2021 (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Thanh P và Nguyễn Thị Kim H là hai đối tượng nghiện ma túy. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên vào khoảng 12 giờ ngày 26/5/2021, P điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 60Y5-5374 đi từ nhà của P ở ấp T, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai đến chòi lá của Nguyễn Thị Kim H thuộc ấp T, xã P, huyện N tỉnh Đồng Nai rủ H góp tiền mua ma túy về sử dụng, H đồng ý. H lấy số tiền 50.000 đồng đưa cho P, còn P bỏ ra số tiền 250.000 đồng. Sau đó, P điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 60Y5-5374 đến nhà chờ xe buýt ở Chợ mới L thuộc Thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai gặp một người tên Th (không rõ nhân thân) mua 07 gói ma túy với số tiền 300.000 đồng. Sau khi nhận ma túy xong, P cất giấu số ma túy trên trong túi quần rồi điểu khiển xe mô tô chạy về lại chòi lá của H. Khi vào bên trong chòi lá gặp H, P lấy 07 gói ma túy từ trong túi quần ra cho vào một chiếc ví nhỏ màu đen của P rồi đem cất giấu số ma túy trên dưới nền nhà cạnh chiếc giường để cả hai sử dụng dần. Đến 14 giờ 30 phút cùng ngày, khi P và H đang ngồi nói chuyện thì bị Công an xã P đến bắt quả tang cùng tang vật và chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra xử lý theo thẩm quyền.

Tang vật thu giữ gồm:

- 07 (bảy) gói nylon hàn kím hai đầu, chứa tinh thể màu trắng thu giữ bên trong ví da màu đen được P và H cất giấu dưới cạnh gường trong chòi của Nguyễn Thị Kim H.

- 01 ví da nhỏ màu đen của Phạm Thanh P dùng để cất giấu ma túy.

- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu xám trắng; 01 điện thoại di động hiệu Realme màu đen của Phạm Thanh P.

- 01 điện thoại di động hiệu Sam sung màu đen của Nguyễn Thị Kim H - 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 60Y5-5374 (không thu giữ được giấy đăng ký xe).

Tại bản kết luận giám định số: 1101/KLGĐ-PC09 ngày 02/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 1,4905 gam, loại: Methamphetamine. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 1,4905 gam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 208/CT.VKS-NT ngày 05/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch đã truy tố các bị cáo Phạm Thanh P và Nguyễn Thị Kim H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Phạm Thanh P từ 01 (một) năm 02 (hai) tháng đến 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kim H từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 02 (hai)tháng tù.

- Về biện pháp tư pháp: Căn cứ các Điều 46, 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị Toà tuyên:

+ Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 1,4310 gam được niêm phong trong phong bì có ký hiệu số: 1101/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Đồng Nai có các chữ ký ghi rõ họ tên: Phạm Thị H M và hình tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 ví da nhỏ màu đen là tang vật vụ án.

+ Trả lại cho bị cáo Phạm Thanh P 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu xám trắng; 01 điện thoại di động hiệu Realme màu đen do không liên quan đến vụ án.

+ Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Kim H 01 điện thoại di động hiệu Sam sung màu đen do không liên quan đến vụ án.

+ Đối với xe mô tô biển kiểm soát 60Y5-5374, P khai mua của một người (không rõ nhân thân), Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch đã tiến hành xác minh chủ sở hữu là ông Nguyễn Duy T, đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Ấp S, xã C, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên, qua xác minh hiện ông T không có mặt tại địa phương, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ xử lý sau.

- Về án phí: Đề nghị Toà tuyên buộc các bị cáo Phạm Thanh P, Nguyễn Thị Kim H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo Phạm Thanh P, Nguyễn Thị Kim H không có ý kiến gì đối với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch và không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa.

Lời nói sau cùng của bị cáo Phạm Thanh P tại phiên tòa: Bị cáo kính mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời nói sau cùng của bị cáo Nguyễn Thị Kim H tại phiên tòa: Bị cáo kính mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nhơn Trạch, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Phạm Thanh P và Nguyễn Thị Kim H đã khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có tại hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở xác định:

Vào ngày 26/5/2021, Phạm Thanh P và Nguyễn Thị Kim H đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, khối lượng 1,4905 gam, loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng tại ấp T, xã P, huyện N thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Như vậy, hành vi nêu trên của các bị cáo đã có đủ căn cứ kết luận: Các bị cáo Phạm Thanh P và Nguyễn Thị Kim H phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch đã truy tố là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: [3.1] Về nhân thân:

- Bị cáo Phạm Thanh P có 01 tiền án chưa được xóa án tích (ngày 30/9/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai tuyên xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999 tại Bản án số 181/2014/HSST ngày 30/9/2014. Đến ngày 30/9/2015, chấp hành xong hình phạt tù. Đến ngày 01/11/2021 mới chấp hành xong bản án).

- Bị cáo Nguyễn Thị Kim H có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự [3.2] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đến quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng chất ma túy; làm lan tràn tệ nạn xã hội nghiện ma túy và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác.

Xét vai trò của các bị cáo:

- Bị cáo P là người đề xướng, rủ rê bị cáo H và là người trực tiếp đi mua ma túy về tàng trữ nhằm mục đích sử dụng.

- Bị cáo H phạm tội lần đầu, chỉ góp số tiền nhỏ cùng để bị cáo P mua ma túy về tàng trữ để sử dụng.

Do đó, cần xử phạt các bị cáo mức án nghiêm tương xứng với hành vi và vai trò của từng bị cáo, cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền mỗi bị cáo từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ. Tuy nhiên, các bị cáo khai việc làm và thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo P đã có 01 tiền án, chưa được xóa án tích. Nay bị cáo tiếp tục phạm tội, thuộc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Bị cáo Nguyễn Thị Kim H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên Tòa, các bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[7] Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 1,4310 gam được niêm phong trong phong bì có ký hiệu số: 1101/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Đồng Nai có các chữ ký ghi rõ họ tên: Phạm Thị H Mai và hình tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 ví da nhỏ màu đen là tang vật vụ án.

- Trả lại cho bị cáo Phạm Thanh P 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu xám trắng; 01 điện thoại di động hiệu Realme màu đen do không liên quan đến vụ án.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Kim H 01 điện thoại di động hiệu Sam sung màu đen do không liên quan đến vụ án.

[8] Đối với đối tượng tên Th là người bán ma túy cho P, do chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ xử lý sau.

[9] Đối với xe mô tô biển kiểm soát 60Y5-5374, P khai mua của một người (không rõ nhân thân), Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch đã tiến hành xác minh chủ sở hữu là ông Nguyễn Duy T, đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Ấp S, xã C, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên, qua xác minh hiện ông T không có mặt tại địa P, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ xử lý sau.

[10] Về án phí: Các bị cáo Phạm Thanh P, Nguyễn Thị Kim H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng là phù hợp, về hình phạt phù hợp một phần với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận một phần.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 136, 260, 298, 299, 326, 327, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

1. Về tội danh:

Tuyên bố các bị cáo Phạm Thanh P và Nguyễn Thị Kim H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Phạm Thanh P 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/5/2021.

2.2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kim H 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/5/2021.

3. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng các Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 1,4310 gam được niêm phong trong phong bì có ký hiệu số: 1101/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Đồng Nai có các chữ ký ghi rõ họ tên: Phạm Thị H Mai và hình tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 ví da nhỏ màu đen là tang vật vụ án.

- Trả lại cho bị cáo Phạm Thanh P 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu xám trắng; 01 điện thoại di động hiệu Realme màu đen do không liên quan đến vụ án.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Kim H 01 điện thoại di động hiệu Sam sung màu đen do không liên quan đến vụ án.

(Vật chứng nêu trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch đang lưu giữ theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai) 4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc các bị cáo Phạm Thanh P, Nguyễn Thị Kim H mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Các bị cáo Phạm Thanh P, Nguyễn Thị Kim H được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 05/2022/HS-ST

Số hiệu:05/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;