Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2022/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 03/2022/HS-PT NGÀY 06/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 124/2021/TLPT-HS ngày 24 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 123/2021/QĐXXPT-HS ngày 23 tháng 12 năm 2021 do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Việt Đ đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 278/2021/HS-ST ngày 21-10-2021 của Toà án nhân dân thành phố Nam Định.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Việt Đ; sinh ngày 20-8-2003 tại tỉnh Nam Định; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số nhà 05/8/114 đường Nguyễn Khuyến, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi ở: phòng 309 khách sạn Việt Đ, quốc lộ 10, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: lớp 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Tiến Đ và bà Trần Thị T; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27-7-2021 đến nay.

* Người làm chứng:

- Chị Phạm Hồng H

- Anh Phạm Minh Đ

- Chị Trần Thu H1

Tại phiên tòa có mặt bị cáo Đ, vắng mặt những người làm chứng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 26-7-2021, tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực gần khách sạn LakeSide số 168 Hùng Vương phường V thành phố N, phát hiện Nguyễn Việt Đ và Phạm Hồng H sinh năm 2003, trú tại: số 15/139 đường Lương Thế Vinh phường C thành phố N đang dừng xe máy biển kiểm soát 18B2 - 38917 có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra phát hiện thu giữ tại chân cột điện ngay chỗ Đ và H dừng xe: 01 túi nylon màu trắng kích thước khoảng (01x1,5)cm bên trong có chứa chất rắn tinh thể màu trắng - niêm phong ký hiệu Đ1; 01 túi nylon màu trắng kích thước khoảng (2 x 2)cm, bên trong có đựng 03 viên nén hình ngũ giác màu xanh, mặt trước có in hình đầu lâu, mặt sau có đường kẻ sọc ở giữa – niêm phong ký hiệu Đ2. Ngoài ra còn tạm giữ của Đ 01 chiếc điện thoại màu trắng hồng mặt sau có chữ Iphone, 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 18B2 – 38917 đều đã cũ và số tiền 1.000.000 đồng; tạm giữ của H 01 chiếc điện thoại màu đen mặt sau có chữ Iphone đã cũ. Sau đó tổ công tác đã đưa Đ và H mời người làm chứng về trụ sở Công an tỉnh Nam Định, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật.

Bản Kết luận giám định số 1044/GĐKTHS ngày 28-7-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: vật chứng thu giữ của Nguyễn Việt Đ niêm phong gửi giám định có ký hiệu Đ1 là ma túy, loại ma túy: Ketamine, khối lượng 0,606 (không phảy sáu trăm linh sáu) gam; vật chứng niêm phong gửi giám định có ký hiệu Đ2 là ma túy, loại ma túy: MDMA, tổng khối lượng 1,431 (một phảy bốn trăm ba mươi mốt) gam Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Việt Đ khai: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 26-7- 2021, Đ đi xe máy biển kiểm soát 18B2 - 38917 đến Nhà nghỉ Sen Vàng địa chỉ: số 56 đường Nguyễn Công Trứ thành phố Nam Định gặp Hân là bạn rủ đi chơi. Đ chở H đến đường Phù Long thành phố Nam Định, Đ bảo H xuống xe đứng chờ còn Đ đi xe máy một mình đến khu vực đường Phù Nghĩa thành phố Nam Định gặp một thanh niên không quen biết đang đứng ven đường, Đ đưa cho anh ta số tiền 1.750.000 đồng để mua ma túy, thanh niên nhận tiền rồi đưa cho Đ 02 túi ny lông màu trắng trong có ma túy ketamine và 03 viên ma túy tổng hợp. Đ cất 02 túi ma túy vào túi quần bên trái của Đ đang mặc rồi đi xe máy quay lại chỗ H đang đứng chờ. Sau đó Đ chở H đi đến khách sạn LakeSide rồi dừng xe máy cạnh cột điện trước cửa khách sạn. Đ sợ cất giấu ma túy trong người sẽ bị cơ quan công an phát hiện nên lấy 02 túi ny lông đựng ma túy trong túi quần để xuống chân cột điện trước cửa khách sạn LakeSide thì bị lực lượng công an bắt quả tang. Lúc đầu Đ khai số ma túy mang đi để bán, nhưng sau đó Đ khai số ma túy bị thu giữ là của Đ mua về để bản thân Đ sử dụng chứ không bán cho ai. Đ không nói cho H biết việc mua tàng trữ ma túy. H khai nhận là bạn của Đ có biết việc Đ nghiện ma túy và chỉ đi chơi cùng Đ. H không biết việc Đ cất giấu ma túy chỉ khi bị lực lượng công an bắt H mới biết.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 278/2021/HS-ST ngày 21-10-2021, Toà án nhân dân thành phố Nam Định đã quyết định:

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91, Điều 101, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Việt Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Việt Đ 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 27-7-2021.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo.

Ngày 27-10-2021, bị cáo Nguyễn Việt Đ có đơn kháng cáo với nội dung: Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là đúng người, đúng tội, tuy nhiên mức hình phạt 27 tháng tù là quá nặng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình, cải tạo lao động trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và trình bày: Bị cáo rất ăn năn hối hận về việc làm của mình, mức hình phạt 27 tháng tù đối với bị cáo là quá nặng, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định phát biểu quan điểm: Đơn kháng cáo của bị cáo hợp lệ, được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Về nội dung: Hành vi tàng trữ trái phép 0,606 gam Ketamine; 1,431gam MDMA của bị cáo tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 27 tháng tù là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, mẹ bị cáo có đơn trình bày xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội, sửa chữa lỗi lầm trở thành công dân tốt cho xã hội. Mặt khác, bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, nhận thức còn hạn chế. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm cho bị cáo từ 6-9 tháng tù.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Xin HĐXX xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về phần thủ tục: Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định, được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 26-7-2021, tại khu vực trước cửa khách sạn Lakeside số 168 Hùng Vương phường V thành phố N, Nguyễn Việt Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,606 gam Ketamine; 1,431gam MDMA (tỷ lệ phần trăm khối lượng 02 chất ma túy là: Ketamine = 3,03 % + MDMA = 28,62 % tổng tỷ lệ % = 31,65%), mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, HĐXX xác định bị cáo là vị thành niên khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi, mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân, khối lượng ma túy không lớn. Tại phiên tòa, gia đình bị cáo xuất trình tài liệu có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Cấp sơ thẩm quyết định mức hình phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Vì vậy. HĐXX quyết định giảm một phần hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo, sớm được trở về cùng gia đình. Đồng thời, thể hiện bản chất nhân đạo, khoan hồng của pháp luật.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận, nên bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm,

2. Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 91, Điều 101, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Việt Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Việt Đ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 27-7-2021.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị;

Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2022/HS-PT

Số hiệu:03/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;