Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (0,49 gam ma túy) số 64/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 64/2022/HS-ST NGÀY 18/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 62/2022/TLST- HS ngày 22 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2022/QĐXX - ST, ngày 04 tháng 8 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Đức T; Sinh ngày 04 tháng 7 năm 1996 tại huyện Y Th, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm 5, xã Tr Th, huyện Y Th, tỉnh Nghệ An; Tạm trú: tại khối B M, phường Ng Th, thị xã C L, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Ng; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền sự: không; Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2020/HSST ngày 28/5/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An xử phạt 01 năm 06 tháng tù, về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Chấp hành xong bản án ngày 08/5/2021; Nhân thân: Quyết định số 12/2016/QĐ-TA ngày 12/10/2016 của Tòa án nhân dân thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 18 tháng. Chấp hành xong ngày 09/02/2018. Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03 tháng 5 năm 2022 đến nay. Có mặt.

2. Nguyễn Văn T; Sinh ngày: 06 tháng 10 năm 2000 tại xã Ng Th, huyện Ng L, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm Đ, xã Ng Th, huyện Ng L, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ng và bà Hoàng Thị Ch; Bị cáo chưa có vợ; Tiền án, tiền sự: không; Bị tạm giữ từ ngày 03 tháng 5 năm 2022 cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 10 giờ 30 phút ngày 03 tháng 5 năm 2022, Nguyễn Đức T và Nguyễn Văn T rủ nhau góp tiền đi mua ma túy về sử dụng. Cả hai thống nhất mỗi người góp 300.000 đồng để mua ma túy. T đưa xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave Alpha màu đen - bạc, biển kiểm soát 37P1-772.41 (Xe T mượn của mẹ đẻ là chị Nguyễn Thị Ng) cho T để T đi mua ma túy. Sau đó, T điều khiển xe đến khu vực trước cổng Trường Đại học V cơ sở 2 thuộc xã Ng Ph, huyện Ng L, tỉnh Nghệ An gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 (Một) gói ma túy với giá 600.000 đồng rồi đi về chở T tìm nơi để sử dụng. Khoảng 11 giờ 15 phút cùng ngày, khi T và T đi đến khu vực xóm Tr T, xã Ng Q, huyện Ng L, tỉnh Nghệ An thì bị Tổ công tác Công an huyện Nghi Lộc phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ bên trong bàn tay phải của T 01 (Một) gói nilon màu trắng, phía trong chứa các hạt tinh thể màu trắng (Nghi là ma túy); 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave Alpha màu đen - bạc, biển kiểm soát 37P1-772.41;

01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh của Nguyễn Văn T Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu vật giám định và niêm phong lại, Cơ quan điều tra xác định: Sau khi loại bỏ bao bì, chất tinh thể màu trắng (Nghi là ma túy) thu giữ của có khối lượng 0,49 gam (Không phẩy bốn mươi chín gam), đã lấy 0,18 gam (Không phẩy mười tám gam) gửi đi giám định. Còn lại 0,31 gam (Không phẩy ba mươi mốt gam) được niêm phong và nhập Kho vật chứng Công an huyện Nghi Lộc.

Căn cứ kết luận giám định số 589/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 09/5/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: "Mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Đức T và Nguyễn Văn T gửi đến giám định là ma túy (Methamphetamine). Số chất tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Đức T và Nguyễn Văn T có khối lượng là 0,49 g (Không phẩy bốn mươi chín gam) Bản cáo trạng số 69/2022/CT-VKS-HS ngày 21 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An truy tố các bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng đã nêu trên. Các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận giám định, kết luận khối lượng của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An và các Quyết định cũng như hành vi của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đối với vụ án.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An giữ quyền công tố và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Đức T và Nguyễn Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 khoản 2 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 18 đến 24 tháng tù; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 15 đến 18 tháng tù;

Về vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự tuyên tịch thu và tiêu hủy 0,31 gam ma túy còn lại thu giữ của các bị cáo; 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Các bị cáo nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An và không tranh luận gì.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, rất ân hận về hành vi của mình. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh, khung hình phạt: Xét, tại phiên toà hôm nay các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, các biên bản mở niêm phong, xác định trọng lượng, lấy mấu giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 03 tháng năm 2022, tại khu vực xóm Tr T, xã Ng Q, huyện Ng L, tỉnh Nghệ An, với vai trò đồng phạm giản đơn, vừa thực hành, vừa giúp sức cho nhau, Nguyễn Đức T và Nguyễn Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,49 gam (Không phẩy bốn mươi chín gam) chất ma túy (Methamphetamine) nhằm mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện Nghi Lộc phát hiện, bắt quả tang. Vì vậy, hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc truy tố là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về hình phạt chính: Tội phạm thuộc loại nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, là một trong những nguyên nhân làm lây lan và gia tăng các loại tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Vì vậy, phải xử nghiêm đối với các bị cáo mới có tác dụng giáo dục cải tạo, nâng cao công tác phòng ngừa chung là cần thiết.

Xét vai trò, trách nhiệm của từng bị cáo:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa không chứng minh được người khởi xướng, rủ rê nên vai trò của các bị cáo như nhau. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử căn cứ vào hành vi phạm tội cụ thể của từng bị cáo, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thái độ khai báo sau khi phạm tội trước cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay để xem xét cho các bị cáo khi quyết định hình phạt;

Bị cáo T là người có tiền án tại Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2020/HSST ngày 28/5/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An xử phạt 01 năm 06 tháng tù, về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Chấp hành xong án phạt tù vào ngày 08/5/2021, phạm tội lần này chưa được xóa án tích thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; là người có nhân thân xấu: Tại Quyết định số 12/2016/QĐ-TA ngày 12/10/2016 của Tòa án nhân dân thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 18 tháng. Điều này thể hiện bị cáo không chịu cải sửa, coi thường pháp luật nên cần phải lên một mức án tương xứng nhăm mục ích để giáo dục, răn đe, phòng ngừa tái phạm. Đối với bị cáo T tuy là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự nhưng bị cáo khai là mình có nghiện ma túy nên đi mua ma túy với mục đích là sử dụng. Vì vậy cần phải áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo và phong ngừa chung. Cần tiếp tục tạm giam các bị cáo 45 ngày sau khi tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án. Tuy nhiên cũng cần xem xét cho các bị cáo bởi: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải (điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự) nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo khi quyết định hình phạt.

[4]. Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định" Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 triệu đồng đến 500.000.000 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản...", do đó các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo T, kết quả điều tra không xác định được nhân thân, lý lịch cụ thể nên không có căn cứ xử lý.

[5] Về vật chứng vụ án: Đối với 0,31 gam ma túy còn lại thu giữ của các bị cáo là vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T.

[6]. Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đức T và Nguyễn Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy";

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Đức T 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam là ngày 03 tháng 5 năm 2022.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Văn T 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam là ngày 03 tháng 5 năm 2022.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu hủy 01 phong bì thư do Công an huyện Nghi Lộc ban hành niêm phong mặt trước có ghi: “Vật chứng còn lại thu giữ khi bị bắt quả tang Nguyễn Đức T và Nguyễn Văn T tàng trữ trái phép chất ma túy ngày 03 tháng 5 năm 2022. mặt sau là dấu của công án huyện Nghi Lộc và chữ ký của các thành viên tham gia niêm phong” Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đã cũ đã qua sử dụng. Hiện vật chứng trên đang được tạm giữ tại kho tang vật của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nghi theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Nghi Lộc với Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Lộc vào ngày 18 tháng 7 năm 2022.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Nguyễn Đức T và Nguyễn Văn T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (0,49 gam ma túy) số 64/2022/HS-ST

Số hiệu:64/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;