TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG PHÚ, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 53/2021/HS-ST NGÀY 15/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, SỬ DỤNG TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG
Ngày 15 tháng 7 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 6 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2021/QĐXXST- HS ngày 01 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:
- Họ và tên: Đinh Xuân H. Tên gọi khác: Gia H.
- Sinh ngày 09 tháng 10 năm 1996. Nơi sinh: Bình Phước.
- Nơi cư trú: Ấp Thái Dũng, xã Tân Tiến, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước.
- Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không.
- Nghề nghiệp: Làm rẫy. Trình độ học vấn: 12/12.
- Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không.
- Họ tên cha: Đinh Văn M, sinh năm 1961.
- Họ tên mẹ: Phạm Thị Q, sinh năm 1970.
- Bị cáo có 02 chị em ruột, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 2001. Bị cáo là con thứ 2 trong gia đình.
- Vợ: không. Con: không.
- Tiền án, tiền sự: Không.
- Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt tạm giam từ ngày 02/10/2020 đến ngày 11/3/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lĩnh, từ ngày 12/3/2021 đến nay bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại Phên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại Phên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 3/2020 (không rõ ngày) Đinh Xuân H (tên gọi khác: Gia H), đặt mua 01 khấu súng và 06 viên đạn qua mạng youtube với giá 19.000.000 (mười chín triệu) đồng. Sau khi nhận được súng và đạn, H đem về cất giữ trong phòng ngủ tại nhà của H ở ấp Thái Dũng, xã Tân Tiến, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước. Ngày 30/05/2020, H gọi điện thoại yêu cầu Nguyễn Văn Th phải trả tiền đã vay trước đó cho H. Đến khoảng 08 giờ 30 ngày 31/05/2020, do Th vẫn chưa trả tiền cho H nên H và Th hẹn gặp nhau tại khu vực lô cao su gần nghĩa địa xã Tân Tiến thuộc ấp Minh Hòa, xã Tân Tiến, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước để nói chuyện, giải quyết. Khoảng 09 giờ cùng ngày, H nhờ Vũ Hùng Ph điều khiển xe mô tô chở H đến lô cao su để gặp Th. Khi đi, H mang theo khẩu súng và 06 viên đạn đã mua trước đó (đạn đã lắp sẵn trong súng) cất giấu trong người. Khi đến, H gặp Th cùng với Đoàn Minh T, Nguyễn Việt H và Lê Văn Th. Lúc này, H hỏi Th bao giờ trả tiền cho H. Th nói giờ chưa có tiền, mấy ngày nữa có tiền sẽ trả nhưng H không đồng ý và yêu cầu Th trả tiền ngay. Lúc này, H thấy Th bỏ hai tay vào túi áo khoác và bước tới gần H, sợ Th lấy dao trong áo khoác để tấn công nên H rút trong người ra 01 khẩu súng rồi chỉ về phía lô cao su (không hướng thẳng vào người Th) và nói Th không được bước lại gần, nếu bước lại gần nữa H sẽ bắn thì Th lùi về phía sau. Thấy vậy, T đang đứng cạnh Th nên bước lên phía trước Th, đứng đối diện với H và nói “anh em đang nói chuyện mày rút súng ra để làm gì” rồi yêu cầu H đưa súng cho T. H lùi lại và nói với T “em cầm súng để tự vệ”. Thấy H không đưa súng nên T lao tới nắm cổ áo, giữ tay phải đang cầm súng của H. Trong lúc T và H đang giằng co với nhau, Th dùng chén bằng sành, đựng mủ cao su nhảy vào đánh H bị thương nhẹ; Th và H cũng nhảy vào dùng tay đánh H. Quá trình giằng co, H đã bắn 02 viên đạn hướng xuống đất (không trúng vào ai, không ai bị thương). Sau đó, T tước được khẩu súng của H nên tất cả dừng lại. Ph điều khiển xe mô tô đến chở H về, còn T đem khẩu súng vừa tước được của H giấu vào nghĩa địa, cách hiện trường vụ việc khoảng 50m, rồi tất cả đi về. Đến ngày 02/06/2020, T đem 01 khẩu súng, 04 viên đạn và 02 vỏ đạn đã tước được của H giao nộp cho Cơ quan Công an.
Tại Kết luận giám định số 3247/C09B ngày 29/6/2020 của Viện khoa học hình sự (Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh), kết luận: 01 (một) khẩu súng ngắn dạng ổ quay, bằng kim loại màu trắng, ốp tay cầm màu nâu gửi giám định là súng đồ chơi nguy hiểm, sử dụng để bắn đạn hình cầu đường kính 6mm. Khẩu súng nêu trên đã được chế tạo thủ công để bắn với đạn thể thao cỡ (5,6 x 15,6) mm;
các bộ phận của súng hiện còn đủ, lắp ráp đúng vị trí, hoạt động bình thường và bắn được đạn nổ. Khẩu súng nêu trên là vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng và là vũ khí quân dụng; 04 (bốn) viên đạn chưa bắn và 02 (hai) vỏ đạn đã bắn cùng ký hiệu C gửi giám định là vỏ đạn và đầu đạn của đạn thể thao cỡ (5,6 x 15,6) mm và không phải vũ khí quân dụng.
Tại bản Cáo trạng số 16/CT-VKS ngày 24 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước đã truy tố Đinh Xuân H về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng.” theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại Phên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo như Cáo trạng đã đề cập và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Đinh Xuân H phạm tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng.” Áp dụng khoản 1 Điều 304 ; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Đinh Xuân H từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 304 của Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Về xử lý vật chứng đề nghị: Áp dụng điểm a khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 , đề nghị tuyên tịch thu tiêu huỷ:
+ 01 (một) khẩu súng bằng kim loại, màu trắng, ốp tay cầm bằng nhựa, màu nâu có ký hiệu WG, số hiệu 18TH2643;
+ 04 (bốn) viên đạn bằng kim loại, đầu đạn màu đen, vỏ màu vàng dài 15mm, đuôi đạn ký hiệu C;
+ 02 (hai) vỏ đạn đã bắn màu vàng dài 15mm, đuôi đạn ký hiệu C.
Quá trình điều tra và tại Phên tòa, bị cáo Đinh Văn H khai nhận hành vi phạm tội của mình, thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước truy tố là đúng hành vi phạm tội của bị cáo và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại Phên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại Phên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Quá trình điều tra cũng như tại Phên tòa, bị cáo Đinh Xuân H thừa nhận: Vào khoảng tháng 3/2020, Đinh Xuân H đã có hành vi tàng trữ trái phép một khẩu súng. Đến ngày 31/5/2020 H sử dụng khẩu súng này bắn 02 viên đạn thể thao để giải quyết mâu thuẫn cá nhân với Nguyễn Văn Th tại ấp Minh Hòa, xã Tân Tiến, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước.
Lời khai của các bị cáo tại Phên toà phù hợp với lời khai người làm chứng, và các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào kết luận giám định số 3247/C09B ngày 29/6/2020 của Viện khoa học hình sự (Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh), kết luận: 01 (một) khẩu súng ngắn dạng ổ quay, bằng kim loại màu trắng, ốp tay cầm màu nâu gửi giám định là súng đồ chơi nguy hiểm, sử dụng để bắn đạn hình cầu đường kính 6mm. Khẩu súng nêu trên đã được chế tạo thủ công để bắn với đạn thể thao cỡ (5,6 x 15,6)mm; các bộ phận của súng hiện còn đủ, lắp ráp đúng vị trí, hoạt động bình thường và bắn được đạn nổ. Khẩu súng nêu trên là vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng và là vũ khí quân dụng; 04 (bốn) viên đạn chưa bắn và 02 (hai) vỏ đạn đã bắn cùng ký hiệu C gửi giám định là vỏ đạn và đầu đạn của đạn thể thao cỡ (5,6 x 15,6) mm và không phải vũ khí quân dụng.
Hành vi trái pháp luật của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người đã trưởng thành, có đủ nhận thức để biết súng bắn đạn là vũ khí gây sát thương. Nhà nước nghiêm cấm cá nhân, tổ chức có hành vi liên quan đến việc mua bán, tàng trữ, chế tạo, sử dụng vũ khí quân dụng khi chưa được Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép, nhưng do xem thường pháp luật nên bị cáo đã thực hiện hành vi cất giữ, sử dụng vũ khí quân dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý và sử dụng vũ khí quân dụng của Nhà nước mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn tại địa phương, có khả năng xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 điều 304 Bộ luật hình sự như cáo trạng đã truy tố.
[3] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt [4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại Phên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt, có cha tham gia quân đội trong chiến tranh biên giới phía bắc. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, được Hội đồng xét xử xem xét, áp dụng khi quyết định hình phạt.
[6] Về quyết định hình phạt: Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[7] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có thu nhập ổn định, bị cáo không xâm phạm tội an ninh quốc gia, không tái phạm nguy hiểm và không bị cấm cư trú nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 304 của Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.
[8] Về xử lý vật chứng: 01 (một) khẩu súng bằng kim loại, màu trắng, ốp tay cầm bằng nhựa, màu nâu có ký hiệu WG, số hiệu 18TH2643; 04 (bốn) viên đạn bằng kim loại, đầu đạn màu đen, vỏ màu vàng dài 15mm, đuôi đạn ký hiệu C; 02 (hai) vỏ đạn đã bắn màu vàng dài 15mm, đuôi đạn ký hiệu C. Cần áp dụng điểm a khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy.
[9] Đối với người bán vũ khí quân dụng (Súng) cho H, chưa xác định được nhân thân, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau nên hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với Đoàn Minh T, Nguyễn Văn Th, Nguyễn Việt H, Lê Văn Th: Quá trình giằng co khẩu súng của H; T, Th, H, Th có dùng tay và dùng chén mủ đánh H gây thương tích nhẹ ở tay. H không yêu cầu xử lý và từ chối giám định thương tích Viện kiểm sát không đề cập xử lý nên hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với T: sau khi tước được khẩu súng (vũ khí quân dụng) của H, T đã đem cất giấu tại khu vực nghĩa địa (cách vị trí xảy ra vụ án khoảng 50m). Đến ngày 02/06/2020, T đã chủ động đem khẩu súng này giao nộp, cho cơ quan công an nên hành vi này của T không phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.
T, Th, H, Th cũng không phạm tội che giấu, hoặc không tố giác tội phạm Viện kiểm sát không đề cập xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[10] Quan điểm của đại diện viện kiểm sát về áp dụng pháp luật và về hình phạt phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đinh Xuân H phạm tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng.”
2. Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Đinh Xuân H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án được trừ đi thời hạn tạm giam từ ngày 02/10/2020 đến ngày 11/3/2021.
Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên giao Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Phước tịch thu tiêu huỷ:
01 (một) khẩu súng bằng kim loại, màu trắng, ốp tay cầm bằng nhựa, màu nâu có ký hiệu WG, số hiệu 18TH2643; 04 (bốn) viên đạn bằng kim loại, đầu đạn màu đen, vỏ màu vàng dài 15mm, đuôi đạn ký hiệu C; 02 (hai) vỏ đạn đã bắn màu vàng dài 15mm, đuôi đạn ký hiệu C.
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc Đinh Xuân H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.
4.Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng số 53/2021/HS-ST
Số hiệu: | 53/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đồng Phú - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/07/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về